Do vậy, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và UBKT các cấp đã ban hành hệ thống các văn bản đồng bộ về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra tài chính đảng. Đồng thời, chỉ đạo tăng cường nghiên cứu đổi mới phương pháp, cách thức tiến hành kiểm tra tài chính đảng theo hướng tập trung làm rõ trách nhiệm của cấp uỷ các cấp mà trước hết là ban thường vụ cấp uỷ về công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc quản lý, sử dụng tài chính đảng, bảo đảm hoạt động lãnh đạo của cấp uỷ, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
Để tăng cường công tác kiểm tra tài chính đảng, ngày 18/02/2020, UBKT Trung ương đã có Văn bản số 5274-CV/UBKTTW chỉ đạo UBKT các địa phương tăng cường kiểm tra và đôn đốc UBKT cấp dưới kiểm tra tài chính đảng, trước hết là đối với cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp, các doanh nghiệp trực thuộc cấp ủy, nhất là các đơn vị, các địa bàn, lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm (cổ phần hóa, thoái vốn, đầu tư dự án, góp vốn liên doanh, liên kết, quản lý tài sản công, đất đai...). Trong những năm qua (2016 - 2021), UBKT Trung ương và UBKT cấp tỉnh đã tăng cường kiểm tra chuyên đề, chuyên sâu đối với một số ban thường vụ (BTV) trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp Đảng, trong đó có nội dung chấp hành nghị quyết Trung ương về chuyển đổi, sắp xếp doanh nghiệp Đảng, phù hợp với Luật Doanh nghiệp và tình hình thực tế ở các địa phương. UBKT Trung ương đã hoàn thành 14 cuộc kiểm tra tài chính Đảng đối với BTV các tỉnh, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương và giám sát thực hiện kết luận kiểm tra đối với 5 đơn vị, đạt 100% kế hoạch đề ra. Năm 2016 thực hiện 6 cuộc kiểm tra, 2 cuộc giám sát; năm 2017 thực hiện 7 cuộc kiểm tra; năm 2018 thực hiện 2 cuộc kiểm tra; năm 2019 thực hiện 2 cuộc kiểm tra, 2 cuộc giám sát; năm 2020 thực hiện 2 cuộc giám sát.
UBKT các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đã tiến hành 961 cuộc kiểm tra, có 24/63 địa phương đã thực hiện kiểm tra cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp. Qua kiểm tra đã phát hiện một số hạn chế, vi phạm liên quan đến công tác quản lý và sử dụng tài chính, tài sản Đảng và yêu cầu các đơn vị nghiêm túc kiểm điểm và kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, vi phạm trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác tài chính đảng. Đồng thời, chỉ ra những bất cập về cơ chế, chính sách trong công tác quản lý tài chính, tài sản đảng hiện nay để đề xuất, kiến nghị cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn.
Sau khi có kết luận của UBKT, các đơn vị được kiểm tra đã kịp thời triển khai, tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra, nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm về những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác tài chính của đảng bộ; chỉ đạo các tổ chức đảng có liên quan thực hiện chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những hạn chế, khuyết điểm, vi phạm trong công tác quản lý và sử dụng tài chính ở các cơ quan, đơn vị theo nội dung yêu cầu trong thông báo kết luận. Kết quả kiểm tra có tác dụng nhắc nhở, cảnh báo, uốn nắn những tổ chức đảng, đảng viên có thiếu sót, hạn chế, khuyết điểm; thu hồi tiền và tài sản vi phạm về ngân sách Đảng và Nhà nước; góp phần tích cực vào kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và bảo đảm việc sử dụng ngân sách đảng có hiệu quả, làm trong sạch nội bộ Đảng. Đồng thời, cơ quan UBKT các cấp đã coi trọng việc củng cố và kiện toàn về tổ chức, bộ máy, bổ sung cán bộ có nghiệp vụ chuyên sâu về tài chính, kế toán làm công tác kiểm tra, góp phần thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và công tác xây dựng Đảng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra tài chính đảng vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót; những vấn đề mới nảy sinh cần được kịp thời tổng kết, đánh giá để công tác kiểm tra tài chính đảng đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra trong thời gian tới. Đó là:
Một số tổ chức đảng, cấp uỷ và UBKT chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra tài chính đảng nên chưa thực sự quan tâm đến công tác này. Số lượng các cuộc kiểm tra, đặc biệt là việc kiểm tra cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp, kiểm tra các lĩnh vực dễ nảy sinh vi phạm như: Xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, quản lý, sử dụng tài sản, quản lý sử dụng đất đai... còn ít, có nơi chưa được cấp ủy quan tâm chỉ đạo đúng mức; còn có tư tưởng e ngại khi kiểm tra cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp; nhiều nơi vẫn mang tính hình thức, chất lượng hiệu quả chưa cao, cá biệt còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm khi kiểm tra, xử lý các vấn đề liên quan đến những đảng viên có chức, có quyền, nên chưa góp phần phát hiện, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, khuyết điểm, vi phạm.
Một số cán bộ làm công tác kiểm tra tài chính đảng còn hạn chế về năng lực, nghiệp vụ chuyên môn nên chất lượng báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh của đoàn kiểm tra chưa đưa ra được ý kiến đánh giá rõ ràng và toàn diện về tính trung thực, hợp lý và tình hình quản lý tài chính của đơn vị được kiểm tra. Công tác sơ kết, tổng kết chuyên đề, rút kinh nghiệm về kiểm tra tài chính đảng chưa được chú trọng thường xuyên ở tất cả các cấp.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm trên là: (1) Một số quy định về quản lý, sử dụng tài chính đảng chưa thống nhất, cụ thể, có điểm không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời; (2) Một số cấp uỷ, người đứng đầu thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tài chính đảng và kiểm tra, giám sát tài chính đảng, nhất là việc kiểm tra cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp, còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm; (3) Cán bộ làm công tác tài chính và công tác kiểm tra ở nhiều nơi còn hạn chế về chuyên môn tài chính, kế toán, chưa được bồi dưỡng thường xuyên. Nhiều nơi còn chưa bố trí đủ cán bộ có nghiệp vụ chuyên môn về tài chính, kế toán theo yêu cầu công tác kiểm tra.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra tài chính đảng trong tình hình mới, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp chính sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp uỷ và lãnh đạo UBKT các cấp về kiểm tra tài chính đảng. Cần tăng cường quán triệt về nhận thức về tư tưởng cho cấp uỷ (trước hết là người đứng đầu cấp ủy) và lãnh đạo UBKT các cấp về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra tài chính đảng. Phải xác định thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính đảng là trách nhiệm của cấp ủy mà UBKT các cấp là cơ quan tham mưu và tổ chức thực hiện. Cấp ủy các cấp cần coi việc kiểm tra là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý, sử dụng ngân sách Đảng. Kiểm tra tài chính đảng không phải để kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên mà điều quan trọng là ngăn chặn, phòng ngừa những vi phạm.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra tài chính đảng các cấp. Cần đổi mới công tác tuyển dụng và có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút cán bộ có năng lực về công tác tại UBKT; thương xuyên đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kiểm tra tài chính đảng nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cho cán bộ kiểm tra, trong đó chú trọng bổ sung, cập nhật những kiến thức mới về quản lý tài chính, tài sản đảng.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương pháp kiểm tra tài chính đảng. Đây là một trong những yêu cầu cấp bách của công tác kiểm tra tài chính Đảng. Xuất phát từ phương châm “kiểm tra phải trọng tâm, trọng điểm”; đồng thời để nâng cao chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tiến độ các cuộc kiểm tra, phải tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp kiểm tra bằng cách: Đổi mới và nâng cao công tác khảo sát, lập kế hoạch kiểm tra; chú trọng việc lập và thực hiện kế hoạch kiểm tra chi tiết; nâng cao chất lượng xây dựng báo cáo kiểm tra; xây dựng cơ chế giám sát hoạt động của các đoàn kiểm tra tài chính đảng và đánh giá chất lượng các cuộc kiểm tra.
Thứ tư, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm về quản lý tài chính đảng. Phương châm xử lý kỷ luật của Đảng ta là công minh, chính xác, kịp thời. Do vậy, để thực hiện tốt giải pháp này cần phải có quy định cụ thể các khung xử lý kỷ luật thống nhất đối với các vi phạm được phát hiện trong quá trình kiểm tra (loại vi phạm và mức độ vi phạm); xem xét quy rõ trách nhiệm người đứng đầu và từng cá nhân có liên quan đến các vi phạm; kiên quyết thu hồi về ngân sách những khoản chi sai, chi không đúng chế độ; công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng những vi phạm của các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý, sử dụng tài chính đảng; có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân không thực hiện kết luận, kiến nghị sau kiểm tra.
Thứ năm, kịp thời sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác kiểm tra tài chính đảng. Sơ kết cần được làm thường xuyên, tùy theo yêu cầu của cấp ủy đảng; tổng kết cần phải đánh giá đúng, đánh giá trúng quá trình tổ chức triển khai công tác kiểm tra tài chính đảng. Trong đó phải chú trọng đến việc đánh giá hiệu quả của công tác kiểm tra tài chính đảng thông qua các chỉ tiêu đánh giá cụ thể những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân chủ quan, khách quan để kịp thời có những giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định của Trung ương về công tác tài chính và kiểm tra tài chính đảng phù hợp với thực tiễn./.
http://ubkttw.vn