Miền Trung - Tây Nguyên là vùng đất có 7 di sản được UNESCO công nhận và hàng trăm loại hình di sản khác được công nhận ở cấp quốc gia. Trong đó, Cố đô Huế được nhận diện như là một trường hợp đặc biệt, không chỉ vì là nơi hiện hữu của 2 di sản vật thể và phi vật thể đã được UNESCO công nhận, mà còn là bằng chứng sống động về những quyết tâm và thành tựu của Chính phủ và nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế trong quá trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, Thừa Thiên Huế đã luôn chủ động liên kết với các đô thị di sản trong vùng để phát triển kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực du lịch, đã hình thành các tua, tuyến nhằm khai thác lợi thế đô thị di sản của Vùng như: tua “Con đường di sản miền Trung” kết nối các di sản vật thể và phi vật thể của nhân loại từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Quảng Nam, bao gồm các địa danh Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An; tua “Hành trình qua các kinh đô Việt Cổ” kết nối cố đô Lam Kinh (Thanh Hóa), Phượng Hoàng Trung Đô (tỉnh Nghệ An), quần thể di tích cố đô Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế). Trong lĩnh vực quản lý đô thị, đã chủ trì, phối hợp với cơ quan trung ương và chính quyền địa phương trong khu vực miền Trung tổ chức hội thảo xác định mô hình, chia sẽ kinh nghiệm trong và ngoài nước về công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị, nhất là đối với cố đô Huế và đô thị cổ Hội An. Trong xây dựng và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bước đầu các địa phương đã có phối hợp nhằm mục tiêu phát triển hài hòa của cả Vùng cũng như phát huy được lợi thế so sánh của từng địa phương.
Tuy vậy, sự liên kết giữa các đô thị di sản vẫn còn một số hạn chế do hạ tầng kết nối các đô thị di sản chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là hạ tầng giao thông đến các điểm du lịch. Sản phẩm du lịch - dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng chưa cao. Doanh nghiệp du lịch quy mô vẫn còn nhỏ, chủ yếu là kinh doanh thông qua lưu trú. Thiếu liên kết và chủ động trong hoạt động quảng bá, xúc tiến, tìm kiếm, khai thác thị trường, xã hội hóa công tác trùng tu, tôn tạo và phát huy các giá trị di sản còn yếu. Chưa huy động tối đa các nguồn lực tham gia phát triển du lịch - dịch vụ; đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch - dịch vụ trên một số lĩnh vực còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
Đề xuất giải pháp:
1. Tăng cường quan hệ phối hợp với các địa phương trong công tác quy hoạch. Quy hoạch phát triển vùng phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, phát huy được lợi thế so sánh của mỗi địa phương. Trên cơ sở đó, phân bố lại lực lượng sản xuất phù hợp với thế mạnh của từng địa phương. Phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch, tạo thêm nhiều kênh thông tin quảng bá tiềm năng và cơ hội phát triển toàn vùng. Xây dựng cơ chế thiết lập và chia sẻ thông tin nhằm hỗ trợ công tác điều hành, cung cấp thông tin kêu gọi đầu tư. Tìm kiếm cơ chế đầu tư phát triển hợp lý và tạo bước đột phá trong xúc tiến triển khai những công trình, dự án lớn có tầm ảnh hưởng và tạo sức lan tỏa trong toàn Vùng.
2. Xây dựng “Chuỗi đô thị du lịch miền Trung” phù hợp với định hướng quy hoạch tổng thể của Vùng. Phát triển chuỗi đô thị ven biển trên cơ sở xây dựng và phát triển các thành phố ven biển trở thành cửa ngõ tiến ra biển Đông của từng địa phương như: Thuận An, Chân Mây (Thừa Thiên Huế), Đà Nẵng, Hội An, Vạn Tường, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang.
Xây dựng đồng bộ hạ tầng giao thông liên tỉnh và quốc tế cho toàn Vùng, nhất là hạ tầng giao thông đường bộ bao gồm tuyến đường cao tốc liên Vùng nối Thanh Hóa với Nha Trang và các tỉnh ở Tây Nguyên; tuyến đường nối các cửa khẩu quốc tế quan trọng đến các tuyến du lịch của Vùng; tuyến đường sắt cao tốc nối các địa phương vùng duyên hải miền Trung; hoàn chỉnh các tuyến đường du lịch ven biển kết nối từ Đồng Hới qua Cửa Việt, Chân Mây - Lăng Cô, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Quy Nhơn đến Nha Trang. Tăng cường các chuyến bay nội địa đến khu vực miền Trung, ưu tiên mở mới các tuyến bay liên kết giữa các đô thị sản trong khu vực Đông Nam Á đến Huế và Đà Nẵng. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các cảng biển để có thể đón các tàu du lịch lớn của thế giới cập cảng.
Đêm Hoàng Cung
3. Đẩy mạnh liên kết phát triển hạ tầng kỹ thuật du lịch theo hướng kết nối các điểm du lịch của các địa phương trong Vùng; lấy lợi thế và bản sắc của địa phương này làm điểm tựa hỗ trợ cho điểm đến của địa phương khác. Đầu tư cho các sản phẩm du lịch đặc trưng của mỗi địa phương nhằm tạo sự đa dạng phong phú, tránh trùng lặp, đơn điệu, tạo ấn tượng với du khách. Nghiên cứu các chính sách ưu đãi, hỗ trợ để hình thành các tua, tuyến du lịch, qua đó các địa phương cùng xây dựng một số tuyến hoặc gói tham quan mang tính liên kết của nhiều loại hình du lịch (văn hóa, di sản, lễ hội, biển, tâm linh, sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh) để du khách có thể ở lại Vùng dài ngày hoặc quay lại nhiều lần.
Thiết lập không gian kinh tế du lịch Vùng thống nhất trên cơ sở kết nối các tua, tuyến, điểm đến, các khu du lịch của các địa phương nhằm phát huy lợi thế của từng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong Vùng. Tạo lập các tua du lịch thông qua chuỗi các sự kiện trong Vùng như Festival Huế, lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội Đống Đa - Sơn Tây, Festival biển Nha Trang…
4. Tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ giữa các đô thị di sản trong công tác trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch. Có cơ chế, chính sách liên kết hợp tác cụ thể để đảm bảo tính khả thi và điều tiết hợp lý giữa các địa phương. Thực hiện tốt Chương trình liên kết thông tin du lịch để du khách khi đến một địa phương nào cũng được được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về các điểm đến tiếp theo trong Vùng. Tổ chức liên kết đào tạo ngành nghề du lịch tại chỗ, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ giảng viên, đào tạo viên ở những địa phương đã có quá trình phát triển du lịch lâu dài cho các địa phương đang còn chậm và khó khăn về phát triển du lịch.
5. Tiếp tục duy trì các phiên gặp mặt, trao đổi giữa lãnh đạo các tỉnh, thành phố trong Vùng. Hợp tác trong việc huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế chính sách để đầu tư phát triển chung của Vùng từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn vốn xã hội hóa thông qua hình thức hợp tác công - tư, nguồn vốn tín dụng ngân hàng ưu đãi... Thống nhất kiến nghị Chính phủ về các cơ chế ưu đãi, khuyến khích phát triển các tỉnh, thành phố trong Vùng. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, các nước Eu.
Một số kiến nghị:
1. Đô thị di sản Huế cũng như các đô thị di sản khác đều xác định du lịch - dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn. Song trong điều kiện hiện nay, du lịch dịch vụ đóng góp cho ngân sách chưa nhiều; không tạo được đột phá trong phát triển kinh tế (dịch vụ - du lịch Thừa Thiên Huế chiếm 56% trong GDP nhưng chỉ đóng góp 15% vào ngân sách). Công tác xã hội hóa trong phát huy giá trị di sản còn khó khăn do vướng mắc về một số cơ chế, chính sách. Hạ tầng phục vụ du lịch, nhất là hạ tầng giao thông kết nối các điểm du lịch chưa được đầu tư đồng bộ. Đề nghị Trung ương cho xây dựng cơ chế đặc thù với các “đô thị di sản” nhằm gắn công tác bảo tồn, tôn tạo di sản với phát triển kinh tế - xã hội (như cơ chế trong phân cấp đầu tư xây dựng; cơ chế phân cấp trong quản lý đô thị; ưu tiên nguồn vốn Trung ương cho công tác di dời các công trình, hộ dân đang sinh sống trong các di sản).
2. Lợi thế so sánh của các đô thị di sản không phải là phát triển công nghiệp mà là phát triển dịch vụ - du lịch; đó là thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và bền vững của quốc gia. Song các đô thị di sản nói chung còn khó khăn về kinh tế; thiếu nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đề nghị Trung ương có cơ chế ưu tiên phân bổ nguồn lực cho các “đô thị di sản”, nhất là các nguồn vốn ODA, vốn trái phiếu Chính phủ để thực hiện các dự án về hạ tầng du lịch, phát triển các dịch vụ du lịch cao cấp, đặc thù…; các dự án về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tinhuytthue.vn