
Bước đột phá trong chủ trương, chính sách
Nhìn lại hơn nửa thế kỷ qua, chính sách dân số của nước ta là một dòng chảy liên tục, là nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng. Chính sách dân số Việt Nam khởi đầu bằng Quyết định 216/CP, ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc “sinh đẻ có hướng dẫn”, trọng tâm là giảm sinh. Từ đó, công tác dân số của Việt Nam chủ yếu là dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ), nghĩa là tập trung vào các nhiệm vụ như: giảm sinh; ổn định quy mô dân số; sinh đẻ có kế hoạch... Đến nay, trước những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn, với sự thay đổi của tình hình thế giới, trong nước, đòi hỏi công tác dân số phải có những đổi mới. Do đó, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng (khóa XII) đã quyết nghị và ban hành Nghị quyết số 21. Sự ra đời của Nghị quyết 21 với các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ hết sức quan trọng được coi là một cuộc cách mạng trong chính sách nhằm mục đích giải quyết toàn diện các vấn đề dân số của Việt Nam, cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, nâng cao chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội.
Với Nghị quyết 21, công tác dân số đã chuyển trọng tâm từ DS-KHHGĐ sang Dân số và Phát triển. Chính sách DS-KHHGĐ trước đây chỉ tập trung vào một nội dung là KHHGĐ với mục tiêu giảm sinh, thì nay, chính sách dân số mới với sáu mục tiêu rộng lớn hơn nhiều, bao gồm: “Duy trì mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”. Rõ ràng, đây là một chủ trương mới và rất lớn của Đảng đối với công tác dân số.
Sau khi Đảng ta ban hành Nghị quyết 21, đã có ý kiến cho rằng vấn đề “KHHGĐ” sẽ bị buông lỏng. Tuy nhiên, cần phải sâu sát để thấy rằng, “chuyển trọng tâm”, chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ” mà KHHGĐ được thực hiện theo phương thức mới. “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người” là nội dung đầu tiên được đề ra tại Nghị quyết mới. Để đạt được mục tiêu này, nhất thiết phải áp dụng các biện pháp KHHGĐ, tức là không thể “từ bỏ KHHGĐ”. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới. Công tác truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ tiếp tục được tăng cường trên cơ sở phù hợp giữa các địa phương, vùng miền có mức sinh khác nhau, nhằm “giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh để đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn”.
Cơ hội và thách thức đối với tỉnh Thừa Thiên Huế
Nghị quyết 21-NQ/TW đã trở thành văn bản định hướng quan trọng để mỗi tỉnh, thành tổ chức thực hiện, tạo bước đột phá, đổi mới trong công tác dân số. Thừa Thiên Huế là địa phương đã đạt được nhiều kết quả về công tác dân số trong những năm qua: tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ổn định 1,1%; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên từ 26% (năm 2005) giảm xuống còn 14,3% (năm 2016); Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 2,7 con giảm xuống còn 2,19 con; mô hình hai con ngày càng trở nên phổ biến... Hiện nay, tỉnh đang ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” (có trên 66% dân số trong độ tuổi có khả năng lao động từ 15 đến 64 tuổi), điều này đã mang đến nhiều cơ hội trong phát triển kinh tế - xã hội nhờ lực lượng lao động dồi dào. Một số chương trình, dự án dân số đã được tích cực triển khai, như: tư vấn và kiểm tra sức khoẻ tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh và sau sinh; can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh... đã góp phần nâng cao chất lượng dân số. Những kết quả này đã trở thành cơ sở, nền tảng quan trọng để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 21 trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, công tác DS-KHHGĐ của tỉnh cũng đứng những thách thức: tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của tỉnh còn ở mức khá cao là 113,1 nam/100 nữ. Tỉnh đang ở giai đoạn già hoá dân số với tỷ lệ 10,3% dân số từ 60 tuổi trở lên. Và theo dự báo sẽ bước vào thời kỳ dân số già trong khoảng 20 năm nữa khi chạm ngưỡng 20%. Đây cũng là một thách thức đặt ra liên quan đến vấn đề an sinh xã hội. Tiếp đó, là vấn đề tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, nhất là ở hai huyện miền núi A Lưới, Nam Đông. Tình trạng mang thai ở lứa tuổi vị thành niên, thanh niên cũng là những vấn đề đáng lo ngại đang đặt ra. Cơ cấu dân số vàng mang đến nhiều cơ hội nhưng đi kèm với nó là khó khăn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm ổn định, thu nhập cao…
Những vấn đề trên đòi hòi sự nổ lực và vào cuộc thực sự quyết liệt của các cấp, các ngành trong triển khai thực hiện 7 giải pháp trọng tâm của Nghị quyết 21 để sớm đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, tạo sức lan toả trong xã hội.
Bích Ngọc