Biểu tượng gắn với nét dịu dàng
Hình ảnh nón lá từng được nhắc đến trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” khi mô tả về Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đội nón lá đến gặp nhà vua vào năm 1283. Hiện nay có nhiều ngôi làng chuyên làm nón lá truyền thống nổi tiếng được nhiều người biết đến ở khắp 3 miền đất nước như làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội), làng Dạ Lê, Phủ Cam, Ðốc Sơ (Huế), làng Phú Gia (Bình Định), làng La Hà (Quảng Bình)… Mỗi làng nghề đều có cách chọn nguyên liệu và kỹ thuật làm nón khác nhau.
Riêng nón lá Huế đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, có sự biến đổi dưới nhiều hình thức để tồn tại và thích nghi với đời sống. Từ chiếc nón được kết hình tròn ở miền Bắc xưa đến nón tròn dẹt, nón thúng quai thao và nón chóp (nón Huế). Nón dạng hình chóp vành rộng, tròn, giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng tre vừa đủ ôm khít đầu người đội, có dây đeo làm bằng vải để giữ trên cổ.
Ngoài ra còn có những chiếc nón ngựa bịt bạc, bịt đồng được dùng cho giới quý tộc, quan lại triều Nguyễn khi cưỡi ngựa. Nón lá không chỉ là vật dụng che nắng mưa mà hơn thế nó đã trở thành biểu tượng riêng gắn với nét dịu dàng của người con gái xứ Huế, trở thành món quà tặng đầy ý nghĩa dành cho du khách. Hình ảnh nón lá nhẹ nhàng đi vào thơ ca của vùng đất sông Hương núi Ngự: “Ai ra xứ Huế mộng mơ/ Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Nghề làm nón lá ở Huế hiện tuy không thịnh vượng như xưa, nhưng vẫn còn đó những làng nghề làm nón lá truyền thống nổi tiếng như Phủ Cam, Ðốc Sơ, Dạ Lê, Vân Thê, Tây Hồ, Mỹ Lam...
Theo các chuyên gia, nón lá Huế được xem là sản phẩm văn hóa đặc sắc của vùng đất Cố đô và là một trong những vật phẩm làm quà tặng của nhiều du khách khi đến Huế. Các cơ sở làm nón nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã trở thành điểm đến tham quan, trải nghiệm hấp dẫn, nằm trong các tour du lịch, tạo sức hút riêng đối với du khách, nhất là khách quốc tế trong hành trình khám phá Cố đô. Sản phẩm Nón lá Huế được nhiều người biết đến một phần cũng nhờ nghề làm nón lá ở đây đã kế thừa, kết tinh từ nhiều loại nón lá, từ cung đình đến dân gian, từ miền Bắc đến miền Nam để tạo ra sản phẩm mang đặc trưng rất riêng của vùng đất này.
Bảo tồn nón lá là gìn giữ bản sắc
Bà Phan Thị Thanh Hà, Chủ tịch Hội Nón lá Huế cho rằng, nghề làm nón Huế vẫn đang đứng trước những khó khăn và thách thức, bên cạnh bảo tồn giá trị văn hóa của nghề nón Huế là dòng chảy hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy so với số lượng người chằm nón trước đây nay còn rất hạn chế và phần lớn là đối tượng yếu thế, khó khăn. Thực tế tại mỗi địa phương còn một số lượng hội viên phụ nữ chằm nón nhưng vì yêu nghề, cố giữ lấy nghề nhưng mong muốn để có một nguồn thu nhập ổn định như trước đây thì đang thật sự khó khăn, đang bối rối với nhiều trăn trở khác nhau với cuộc sống mưu sinh của gia đình mình.
Trước thực trạng đó, ông Phạm Hùng Tiến, Viện phó Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam cho rằng, cần có chế độ chính sách trợ cấp và tạo điều kiện cho các nghệ nhân, thợ tay nghề cao và các cơ sở sản xuất duy trì sản xuất các sản phẩm độc đáo, trước hết nhằm phục vụ sinh hoạt, các lễ hội của cộng đồng và hướng tới sản xuất một số loại sản phẩm cao cấp, có giá trị kinh tế cao đáp ứng thị hiếu của du khách nội địa và quốc tế. “Bởi đây cũng là công tác văn hóa, bảo tồn sản phẩm truyền thống của người Xứ huế. Họ chính là người hiểu nhất về giá trị văn hóa và tạo nền tảng để Văn hóa Nón lá hội nhập tốt hơn với các loại hình văn hóa khác”, ông Tiến chia sẻ.
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Phan Ngọc Thọ cho biết, để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống nón lá Huế, Thừa Thiên Huế đã và đang tìm kiếm và triển khai nhiều giải pháp mang tính sáng tạo để phát triển thương hiệu cho làng nghề trong thời kỳ hội nhập, nhưng vẫn bảo tồn được nghề làm nón thủ công, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của quê hương, gắn kết với nhiều hoạt động đa dạng theo thị hiếu tiêu dùng và thương mại hóa sản phẩm.
Theo ông Thọ, để duy trì, khai thác tốt thế mạnh, tiềm năng của du lịch làng nghề nói chung và bảo tồn, phát triển nghề làm nón lá Huế nói riêng, trong thời gian tới, Hội Nón lá cần chủ động, tích cực trong việc xây dựng kế hoạch, vận động sự tham gia phối hợp của các cơ quan liên quan, sự hỗ trợ của các tổ chức.
Ngoài ra, đẩy mạnh phối hợp tuyên truyền, quảng bá, khẳng định thương hiệu nón lá Huế. Gắn phát triển nón lá Huế với Áo dài Huế và khai thác các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống để hình thành chuỗi sản phẩm, hoạt động văn hóa thu hút khách du lịch.
Bên cạnh đó, thúc đẩy các hoạt động đào tạo nghề nón lá, lồng ghép các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường để thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát triển giá trị nón lá Huế. Tích cực phối hợp thực hiện các khảo sát, đánh giá thực trạng nghề, làng nghề, trên cơ sở đó, đề xuất lựa chọn mô hình nón lá gắn với làng nghề, kết hợp với phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương. Đồng thời, chú trọng công tác số hóa dữ liệu về lịch sử hình thành, phát triển của nón lá Huế.
Minh An