Thứ tư, 13/08/2025
Thành Phố Huế 33°C
6689
+ aa -

Chính trị - Xã hội

Cập nhật lúc : 17/10/2017 09:56
Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển và đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 9 (khóa XV) sẽ khai mạc vào ngày 18/10. Hội nghị sẽ bàn một số nội dung quan trọng, trong đó tập trung vào các giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển và đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế trong tình hình mới. Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh xin giới thiệu một số bài viết về thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển và đầm phá Tam Giang - Cầu Hai:
Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.


Phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch vùng ven biển, đầm phá Thừa Thiên Huế

 

Với 128 km chiều dài bờ biển, Thừa Thiên Huế có nhiều bãi biển đẹp, đặc biệt, vịnh Lăng Cô được bình chọn là một trong 30 vịnh biển đẹp nhất thế giới; hệ đầm, phá Tam Giang - Cầu Hai trải dài 70 km trên địa phận các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc và thị xã Hương Trà, được đánh giá là đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam Á với nhiều giá trị du lịch đặc sắc về cảnh quan, sinh thái và đa dạng sinh học; không gian Cảnh Dương - Lăng Cô - Bạch Mã được xác định là những điểm đến có tiềm năng để phát triển thành khu du lịch quốc gia và điểm du lịch quốc gia trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt, có cảng biển nước sâu Chân Mây - là “cửa ngõ” của du lịch đường biển…

 

Trong những năm qua, tỉnh đã đầu tư và triển khai nhiều hoạt động du lịch, bước đầu đem lại hiệu quả. Đã hình thành một số tuyến du lịch chủ yếu: Huế - Phước Tích - Ô Lâu - Điền Lộc; Huế - Bao Vinh - Thanh Phước - Hải Dương; Huế - Thuận An - Vinh Thanh - Cầu Hai - Tuý Vân; Huế - Cảnh Dương - Cù Dù - Lăng Cô - Sơn Chà… Đặc biệt, đã xây dựng, công bố và đưa vào khai thác 6 tour du lịch ở vùng đầm, phá Tam Giang, huyện Quảng Điền, góp phần đa dạng hóa du lịch biển, đầm phá kết hợp với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và trải nghiệm làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế.

 

Dịch vụ trên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.

 

Một số bãi biển và một số khu nghỉ dưỡng được đầu tư, xây dựng, nâng cấp để thu hút và phục vụ du khách như: Thuận An, Lăng Cô, Phú Thuận, Vinh Thanh; Laguna, Ana Mandara, Vedana, Thanh Tâm, Làng Cò; đồng thời, đã xúc tiến một số dự án lớn đầu tư tại một số khu vực ven biển ở Lộc Bình, Vinh Thanh, Vinh Xuân, đầm Lập An,…

 

Từng bước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vùng ven biển, đầm phá; nâng cấp, xây dựng một số tuyến đường: đường vào thôn Ngư Mỹ Thạnh; xây mới một số trục đường tiếp giáp với các bãi biển: Điền Hải, Điền Hoà, Điền Lộc (Phong Điền), Vinh Thanh, Vinh Xuân, Vinh An, Phú Diên (Phú Vang), Vinh Hiền (Phú Lộc), Quảng Công, Quảng Ngạn (Quảng Điền), Hải Dương (Hương Trà), tạo điều kiện kết nối với cụm du lịch trung tâm là thành phố Huế.

 

Đã chú trọng khai thác khách du lịch đường biển và đường bộ theo tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây; bình quân hằng năm, thu hút 60.000 lượt khách cập cảng, riêng năm 2016, đã có khoảng 79.000 lượt khách cập cảng Chân Mây, góp phần vào phát triển du lịch của tỉnh.

 

Tuy vậy, việc phát triển du lịch vùng ven biển, đầm phá còn một số hạn chế: Sản phảm du lịch vùng ven biển, đầm phá còn nghèo nàn; chủ yếu tập trung vào khai thác dịch vụ lưu trú và một số bãi tắm. Chưa thu hút được các doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển các dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao, lặn biển, du thuyền… Tính kết nối giữa các bãi tắm đẹp như Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô với vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai chưa cao, đã và đang làm lãng phí tiềm năng du lịch. Hệ thống giao thông kết nối vùng biển, đầm phá chưa được đầu tư đồng bộ; cảng biển du lịch Chân Mây vẫn đang còn ở giai đoạn xúc tiến đầu tư để phát triển thành cảng biển du lịch quốc tế. Thiếu các bến thuyền trên vùng đầm, phá và các mô hình nhà nghỉ sinh thái để phục vụ du khách nghỉ qua đêm, nhằm kéo dài thời gian lưu trú của du khách… Nguồn nhân lực du lịch vùng ven biển, đầm phá chất lượng còn thấp; thiếu các cơ sở đào tạo nghề về du lịch, dịch vụ. Thiếu nguồn lực để quảng bá hình ảnh, điểm đến vùng đầm phá, ven biển Thừa Thiên Huế…

 

Du lịch hoàng hôn trên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.

 

Để phát triển mạnh du lịch vùng ven biển, đầm phá, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:

 

Một là, chú trọng công tác quy hoạch và phân vùng phát triển, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch bảo tồn thiên nhiên tại các điểm phát triển du lịch sinh thái; trong đó, chỉ  rõ phân vùng cho du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên. Trước mắt, cần có sự kết hợp, nỗ lực của các cấp, các ngành trong tiến hành nghiên cứu điều tra tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn thuộc khu bảo tồn và khu vực lân cận.

 

Hai là, tập trung phát triển nhiều loại hình, sản phẩm du lịch trên vùng ven biển và đầm phá, đặc biệt là những sản phẩm mang nét đặc thù, tạo sự khác biệt, nhất là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đầm phá và ven biển. Trong đó, chú trọng việc sớm hình thành một số sản phẩm như: ngắm bình minh và hoàng hôn trên đầm phá; du lịch chuyên đề tìm hiểu về các loài động thực vật phục vụ cho mục đích nghiên cứu, học tập; du lịch tìm hiểu đời sống của dân cư và hoạt động làng nghề; du lịch tắm nắng, nghỉ biển và thể thao trên mặt nước… Phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái trong vùng tại Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước cửa sông Ô Lâu, tràm chim Bắc Biên, Rú Chá, khu bảo tồn sinh thái biển đảo Sơn Chà - Hải Vân, các điểm du lịch sinh thái rừng núi phía Tây đầm Lập An,…

 

Ba là, quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng du lịch vùng ven biển, đầm phá. Trong đó, tập trung huy động các nguồn lực, các nhà đầu tư và xã hội hóa để phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch sinh thái trên vùng đầm, phá; nâng cấp, đầu tư xây dựng mới một số bến thuyền du lịch, các trục đường tiếp giáp với các bãi biển ở Điền Hải, Điền Hoà, Điền Lộc (Phong Điền), Vinh Thanh, Vinh Xuân, Vinh An, Phú Diên (Phú Vang), Vinh Hiền (Phú Lộc), Quảng Công, Quảng Ngạn (Quảng Điền), Hải Dương (Hương Trà), Tư Hiền - Cù Dù. Đồng thời, tiếp tục đầu tư, phát triển Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và giải trí biển tầm cỡ khu vực và quốc tế; phát triển  cảng Chân Mây thành cảng biển du lịch quốc tế nhằm gắn kết với thành phố Huế thành đầu mối liên kết vùng với các trung tâm du lịch lớn trong nước và quốc tế.

 

Bốn là, đầu tư phát triển cơ sở vật chất du lịch vùng biển, đầm phá. Sớm xúc tiến, kêu gọi đầu tư các dự án du lịch trọng điểm quanh vùng đầm, phá. Đặc biệt hình thành các khu, điểm du lịch nghỉ dưỡng đặc trưng vùng đầm phá tại Ngũ Điền, Cầu Hai, Lộc Bình, phía Tây đầm Lập An gắn với cảnh quan đầm phá và văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư để kêu gọi các dự án đầu tư du lịch cao cấp mang tầm cỡ quốc tế. Đồng thời, phát triển các cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch sinh thái; nhất là các mô hình nhà nghỉ sinh thái nhằm phục vụ du khách có nhu cầu ở lại qua đêm, bảo đảm hài hoà với thiên nhiên và môi trường; xây dựng các trạm dừng chân nghỉ dọc đường trên đầm phá gắn với hình thành các quầy hàng lưu niệm mang nét đặc trưng của vùng đầm phá.

 

Tàu Voyager.


Năm là, chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hoá, phát triển nhiều loại hình đào tạo nghiệp vụ du lịch; hình thành các trung tâm dạy nghề du lịch các huyện vùng đầm phá. Tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước tiếp tục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch ở vùng đầm phá, ven biển. Từng bước nâng cao năng lực quản lý và kinh doanh du lịch; nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý của địa phương và năng lực quản lý của chính quyền các cấp về du lịch.

 

Sáu là, gắn phát triển kinh tế, phát triển du lịch vùng đầm phá, ven biển với công tác bảo vệ môi trường, cảnh quan đầm phá, ven biển. Tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư ven biển và đầm phá về các hoạt động du lịch biển dựa vào cộng đồng, nhằm chuyển đổi nghề nghiệp, cải thiện sinh kế gắn phát triển kinh tế du lịch với chương trình giảm nghèo. Tăng cường công tác quản lý bãi tắm và dịch vụ phục vụ cho khách du lịch biển, đầm phá; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống thu gom và xử lý rác thải nhất là khu vực dân cư đầm phá, các công trình xử lý nước thải công nghiệp, đô thị, khu du lịch.  

 

Bảy là, huy động, lồng ghép các nguồn lực để đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch vùng ven biển, đầm phá. Lồng ghép các nguồn lực để quảng bá chung cho du lịch toàn ngành, đồng thời, chú trọng việc xây dựng các phóng sự về sản phẩm du lịch đầm phá, nhằm chuyển tải được nét đặc thù của một loại hình du lịch đặc trưng của Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Nhanh chóng hình thành những ấn phẩm có chất lượng và trung tâm thông tin để kịp cung cấp thông tin, giới thiệu về du lịch vùng ven biển, đầm phá với du khách.

 

Hồng Sơn


Thực trạng và một số giải pháp giảm nghèo tại các địa phương vùng ven biển, đầm phá Thừa Thiên Huế

 

Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đối với Thừa Thiên Huế, vấn đề xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội luôn được tỉnh xác định là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết. Những năm qua, công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực, bằng nhiều chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp được triển khai thực hiện đồng bộ, các cơ chế, chính sách giảm nghèo và tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận tốt nhất các dịch vụ xã hội cơ bản, đem lại nhiều kết quả quan trọng, bảo đảm kinh tế - xã hội của địa phương phát triển theo hướng bền vững. Bộ mặt nông thôn, miền núi, các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có nhiều khởi sắc; chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao, đặc biệt là ở các xã khó khăn vùng ven biển, đầm phá.

 

Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2016 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, số hộ nghèo năm 2016: 20.623 hộ, chiếm tỷ lệ: 7,19%; số hộ cận nghèo năm 2016: 15.777 hộ, tỷ lệ: 5,50%. Như vậy, so sánh với kết quả Tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, trong năm 2016, số hộ nghèo giảm 2.977 hộ, tỷ lệ giảm 1,17%; Số hộ cận nghèo tăng 1.744 hộ, tỷ lệ tăng 0,53%.

 

Khôi phục sản xuất bằng nguồn vốn tín dụng chính sách tại Phú Vang.

 

Các địa phương vùng ven biển và đầm phá Thừa Thiên Huế đã quyết tâm, nỗ lực, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, đặc biệt là quan tâm giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn bãi ngang ven biển, đầm phá nhằm góp phần nâng cao đời sống văn hóa, vật chất, tinh thần của người dân nơi đây; không còn hộ đói, số hộ nghèo giảm nhanh qua từng năm. Tập trung ở địa bàn các xã, thị trấn thuộc các huyện: Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền, Phong Điền và thị xã Hương Trà, cuộc sống của người dân vùng ven biển và đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều đổi thay tích cực.

 

Từ năm 2012 - 6/2017, tỷ lệ hộ nghèo tại thị xã Hương Trà đã giảm một cách tích cực từ 6,7% (chuẩn cũ) vào cuối năm 2012, giảm xuống còn 5,87% cuối năm 2016 (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020). Tính đến cuối năm 2016, số hộ nghèo tại Phú Vang đạt tỷ lệ 7,54%, giảm 3,43% so với năm 2015; tỷ lệ hộ nghèo tại Phong Điền: 7,45%; Phú Lộc: 8,94%; Quảng Điền: 11,21%.

           

Đạt được những kết quả trên là nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, các cấp các ngành trong công tác XĐGN, bảo đảm an sinh xã hội. Tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về công tác xóa đói giảm nghèo. Trong đó, Nghị quyết 06-NQ/TU, ngày 15/6/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá X) về phát triển kinh tế biển và đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay đến 2010, tầm nhìn đến năm 2020 đã xác định "Chương trình tái định cư và xoá đói, giảm nghèo dân thủy diện, ven biển và những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng của thiên tai" là một trong những chương trình trọng điểm cần thực hiện. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương đã tập trung các nguồn lực, thực hiện nhiều chính sách, giải pháp đem lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện tốt công tác XĐGN của địa phương.

 

Tuy nhiên, cuộc sống của các hộ dân vùng nông thôn, miền núi, các xã ven biển bãi ngang hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vất vả. Các vùng ven biển bãi ngang, đầm phá Thừa Thiên Huế có địa bàn thấp trũng, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, luôn chịu ảnh hưởng của triều cường, hạn hán, đất khô cằn, bạc màu, canh tác khó khăn, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh còn thiếu. Người dân sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản là chính. Lao động chủ yếu là thủ công, chưa qua đào tạo. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp.

 

Qua rà soát theo các tiêu chí được ban hành tại Quyết định số 1559/QĐ-TTg ngày 05/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, hiện Thừa Thiên Huế có 29 xã bãi ngang ven biển và hải đảo thuộc diện xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo của một số xã vùng bãi ngang ven biển, đầm phá còn rất cao, tại Phú Vang: các xã Vinh Phú, Vinh Hà, Vinh Thái, Vinh Xuân: trên 16%; tại Phong Điền: Phong Chương (21,62%); Điền Hương (14,59%); tại Phú Lộc: Lộc Bình (24,39%); Vinh Hải (16,4%); Vinh Giang (16,32%); Lộc Trì (15,33%); tại Quảng Điền: Quảng An (19%), Quảng Thành (19,4%), Quảng Thái (17,2%), Quảng Lợi (19,1%).

 

Có thể thấy, công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh vẫn đang đối mặt với những thách thức trong quá trình thực hiện như giảm nghèo chưa đồng đều; kết quả giảm nghèo chưa bền vững; chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn mới ở vùng nông thôn, đặc biệt là vùng khó khăn ven biển bãi ngang, đầm phá vẫn ở mức cao. Nguy cơ tái nghèo vẫn còn cao, giảm nghèo theo chuẩn tiếp cận đa chiều đặt ra đặt ra nhiều khó khăn, thách thức lớn.

 

Với mục tiêu thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp để giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, Thừa Thiên Huế đề ra chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo chung cả tỉnh từ 7,19% xuống còn 6,09% vào cuối năm 2017; ưu tiên đối tượng tập trung đầu tư cho các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và các xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng núi.

 

Để thực hiện tốt mục tiêu trên, cần triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ và giải pháp theo chủ trương của tỉnh trong Nghị quyết 04-NQ/TU, ngày 08/11/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Tổ chức triển khai có hiệu quả Kế hoạch 07/KH-UBND của UBND tỉnh về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017.

 

Nghề khai thác ngao ở vùng đầm phá Tam Giang. (Ảnh: TTXVN)


Ngoài ra, đối với các địa phương vùng ven biển, đầm phá, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau: 

 

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền mục tiêu giảm nghèo sâu rộng đến các hộ dân cư và người nghèo nhằm thay đổi và chuyển biến nhận thức trong giảm nghèo, khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, vận động nhân dân cùng góp sức thực hiện công tác giảm nghèo.

 

Thứ hai, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng để thoát nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa trong đầu tư để xây dựng nâng cấp các công trình phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Phát huy vai trò của các cấp, các ngành để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, trợ giúp pháp lý và tạo cơ hội cho người nghèo hiểu biết quyền, nghĩa vụ của mình tiếp cận thuận tiện các dịch vụ xã hội cơ bản.

 

Thứ ba, phát huy tiềm năng lợi thế của vùng ven biển và đẩm phá, đẩy mạnh các giải pháp phát triển kinh tế biển. Tập trung hỗ trợ, ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển sản xuất, đa dạng hóa các ngành nghề để tạo việc làm, tăng thu nhập cho hộ nghèo, cận nghèo. Chú trọng tập trung vào các ngành nghề đào tạo phù hợp với lao động bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển.

 

Thứ tư, hỗ trợ triển khai các giải pháp giúp đỡ đến cộng đồng dân cư các xã ven biển đầm phá thích ứng với biến đổi khí hậu, khắc phục tình trạng sạt lở, triều cường trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện các biện pháp như trồng rừng phòng hộ, trồng rừng ngập mặn; ưu tiên các giải pháp để cứng hóa tuyến đê, kè ở những vùng đã xảy ra sạt lở với tần suất lớn. Có phương án, lộ trình, ưu tiên di dời những hộ  dân nằm trong vùng sạt lở, nguy hiểm bảo đảm ổn định cuộc sống người dân.

 

Thứ năm, tuyên truyền đến cộng đồng có thái độ ứng xử tích cực, thân thiện với biển, đảo, đầm phá; giúp cho công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nguồn lợi thủy sản và môi trường biển, đầm phá phát triển bền vững.

 

Thứ sáu, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về biển, đảo, đầm phá; huy động tối đa sự phối hợp thống nhất của các ngành. Phối hợp tốt giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể; sự đồng thuận của xã hội và người dân để triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo; hưởng ứng các cuộc vận động, các chương trình như "Ngày vì người nghèo"; các phong trào thi đua "Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”;“Toàn dân đoàn kêt xâv dựng nông thôn mới, đô thị văn minh";...

 

Thứ bảy, coi trọng việc nâng cao trình độ dân trí, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở các xã nghèo. Kịp thời biểu dương, khen thưởng cho các tập thể và cá nhân làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo; tổng kết đánh giá để nhân rộng các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả; nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.

 

Với sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo tỉnh cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là sự quyết tâm nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của các hộ nghèo ở các địa phương, tin tưởng rằng, công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh nói chung và ở vùng ven biển và đầm phá nói riêng sẽ có những chuyển biến tích cực, góp phần ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân theo tinh thần Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy; góp phần hoàn thành các chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra.

 

Thanh Minh


Một số giải pháp để phát triển ngành khai thác, chế biến thủy hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá vùng ven biển, đầm phá Thừa Thiên Huế

 

Vùng ven biển Thừa Thiên - Huế với đường bờ biển dài 128 km, có hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, diện tích hơn 22 nghìn ha, là hệ thống đầm phá lớn nhất Đông Nam Á, bao gồm nhiều vùng sinh thái ngập mặn ven biển, phong phú về đa dạng sinh học. Có hơn 450 nghìn dân sinh sống ở ven biển và các vùng đầm phá, chiếm  hơn 1/3 dân số toàn tỉnh. Với 45 xã, thị trấn thuộc địa bàn các huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc, trải dài trên diện tích 127 nghìn ha.

    

Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) “về phát triển kinh tế biển và đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2010, tầm nhìn năm 2020; ngành khai thác, chế biến thủy hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá có nhiều chuyển biến tích cực. Toàn tỉnh, hiện có đội tàu 380 chiếc đánh bắt xa bờ tàu công suất trên 400CV, hầu hết các tàu đều được đầu tư trang bị các thiết bị hiện đại giúp tăng hiệu quả khai thác thủy hải sản dài ngày trên biển và 1.950 chiếc thuyền đánh bắt gần bờ. Có đội tàu 45 chiếc chuyên làm dịch vụ hậu cần nghề cá, hoạt động với mô hình tự liên kết hỗ trợ việc đánh bắt dài ngày trên biển, góp phần rất lớn trong việc giảm chi phí nhiên liệu, tăng hiệu quả đánh bắt, khai thác thủy hải sản. Mặc dù “sự cố môi trường biển” đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động khai thác, chế biến thủy hải sản nói riêng và đời sống nhân dân vùng ven biển đầm phá nói chung nhưng với quyết tâm cao của các cấp chính quyền và nỗ lực vươn lên, vượt khó của nhân dân vùng ven biển, đầm phá, đến nay các hoạt động khai thác, chế biến thủy hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá đã cơ bản phục hồi và có bước phát triển. Cụ thể, tính riêng 9 tháng đầu năm 2017, sản lượng hải sản đánh bắt đạt trên 28,7 ngàn tấn, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu thủy sản 9 tháng đầu năm đạt gần 40 triệu USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2016.

 


Nụ cười của ngư dân vùng biển Thừa Thiên Huế khi được mùa khai thác thủy sản.

         

Đã xuất hiện một số mô hình hoạt động hiệu quả như tại Thị trấn Thuận An – huyện Phú Vang, đã thành lập hiệp hội dịch vụ hậu cần nghề cá, đến nay hiệp hội đã có 25 tàu, công suất trên 400CV, luân phiên cung ứng dịch vụ trên biển. Mô hình này giúp tăng đáng kể năng lực khai thác và đánh bắt thủy hải sản của đội tàu đánh bắt xa bờ tại Phú Vang và các địa phương ven biển khác. Mặc khác, tận dụng nguồn thủy hải sản dồi dào từ việc tăng số lượng các đội tàu đánh bắt, các địa phương còn phát triển mạnh về chế biến mắm, ruốc, nước mắm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế công nghiệp chế biến thủy sản vùng ven biển, đầm phá. Bước đầu đã xây dựng được một số thương hiệu nước mắm nổi tiếng trong và ngoài nước như: Nước mắm Đảnh Vân – Phong Hải, nước mắm Làng Trài – Phú Hải, nước mắm Phú Thuận, nước mắm Quảng Công – Quảng Ngạn, mắm Hải Dương – Hương Trà … còn có hàng ngàn hộ ở các địa phương chuyên sản xuất mắm, nước mắm vươn lên khá giả, làm giàu.

 

Sản xuất mắm Huế.

        

Tuy vậy, khai thác, chế biến thủy hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, đó là: Thiếu những chính sách hỗ trợ thiết thực, đặc biệt là hỗ trợ trong đầu tư hạ tầng cảng cá phục vụ neo đậu, chuyên chở thủy hải sản; năng lực tiếp nhận của một số cảng cá còn hạn chế, cụ thể như Cảng cá Thuận An chỉ có năng lực đáp ứng cho 5 tàu cập bến, vào thời điểm đánh bắt xa bờ các thuyền phải chen chúc nhau; một số luồng lạch do thiên tai lụt lội, qua thời gian dài không nạo vét, cải tạo có hiện tượng bồi lấp, thu hẹp dòng chảy gây khó khăn cho các tàu thuyền vào neo đậu như âu thuyền Phú Hải, Phú Thuận, Vinh Hiền… ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế trong khai thác thủy hải sản và an toàn cho phương tiện đánh bắt. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm mắm, ruốc, nước mắm còn chưa hiệu quả. Tổ chức thực hiện Nghị quyết 67 của Chính phủ còn yếu, nhất là việc vận động bà con ngư dân tham gia đóng mới tàu vỏ thép còn chưa được quan tâm đúng mức.

       

Để phát triển nghề khai thác, chế biến thủy hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá trong tình hình mới, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

         

Một là, nâng cấp, mở rộng các Cảng cá hiện hữu, tăng khả năng tiếp nhận tàu vào neo đậu. Nguồn kinh phí để cải tạo nâng cấp bến cảng có thể huy động nguồn xã hội hóa và lồng ghép các nguồn vốn khác. Cân đối ngân sách hỗ trợ kinh phí nạo vét luồng lạch, kênh đào tạo điều kiện để các tàu đánh bắt xa bờ, công xuất lớn có khả năng vào neo đậu an toàn, nhất là mùa mưa bão đang đến gần.

 


Khu neo đậu tránh trú bão Phú Hải  luôn bị bồi lấp nên chỉ đáp ứng 1/2 công suất.

        

Hai là, tuyên truyền vận động người dân nắm và hiểu rõ hơn về Nghị định 67/NĐ/CP của Chính phủ, đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước góp phần nâng cao năng lực đánh bắt, tăng sản lượng khai thác xa bờ của ngư dân, kết hợp bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển. Để triển khai tốt Nghị định cần sự vào cuộc của các cấp chính quyền địa phương. Trong đó, chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã phải đóng vai trò là cầu nối giữa người dân và các bên liên quan trong tổ chức thực hiện, nhằm hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu cá cụ thể: từ khâu đăng ký đóng mới, vay vốn, giải ngân, đảm bảo chất lượng tàu và quá trình đưa vào vận hành khai thác.... Tránh trường hợp đáng tiếc xảy ra tại một số địa phương khác trên cả nước về chất lượng tàu vỏ thép sau khi đưa vào vận hành khai thác không đảm bảo chất lượng, gây ra dư luận không tốt, làm giảm niềm tin của người dân vùng ven biển, đầm phá vào các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.

 

Tàu vỏ thép đầu tiên của Thừa Thiên Huế, được triển khai đóng mới đầu tháng 6/2016 theo Nghị định 67/NĐ/CP của Chính phủ. Tổng kinh phí đóng tàu là 18 tỷ đồng, trong đó 95% là vốn vay kỳ hạn 15 năm. Tàu dài 28m, công suất 829CV.

         

Ba là, tạo cơ chế chính sách hỗ trợ các cơ sở sửa chữa, cải tạo tàu thuyền thúc đẩy doanh nghiệp tham gia mạnh hơn trong phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ việc và hậu cần nghề cá. Vừa qua huyện Phú Vang đã có quyết định thành lập Cụm Công nghiệp Thuận an, với diện tích 14,5ha nhằm phục vụ nghiên cứu các dự án đóng Sài gòn Nhơn Long Phát và Công ty CP đóng tàu Thiên Hậu Phước. Đây được coi là tín hiệu tích cực đầu tiên trong hỗ trợ phát triển công nghiệp chế tạo tàu công suất lớn, hiện đại, đáp ứng nhu cầu đánh bắt cá xa bờ của người dân vùng biển, góp phần thay đổi thói quen “tiểu nông” khai thác thủy hải sản nhỏ lẻ, gần bờ của đa số người dân vùng ven biển đầm phá; đưa khai thác thủy hải sản và hậu cần nghề cá trở thành ngành công nghiệp khai thác chuyên nghiệp, hiệu quả kinh tế cao.

        

Bốn là, một số sản phẩm từ chế biến thủy sản trên địa bàn đang được thị trường trong và ngoài nước đón nhận, đặc biệt là các sản phẩm mắm, ruốc, nước mắm, cá khô… Các địa phương vùng ven biển, đầm phá cần quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ các đơn vị sản  xuất trong công tác quảng bá hình ảnh sản phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính quyền cấp huyện, cấp xã phải là đầu mối kết nối các sản phẩm mắm, ruốc, nước mắm, cá khô… đặc trưng của địa phương đến các siêu thị, hội chợ, trong tỉnh và cả nước; thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến đến các hộ kinh doanh sản xuất tạo uy tín thương hiệu và chất lượng sản phẩm phải là tiêu chí hàng đầu trong hoạt động kinh doanh sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả và tăng giá trị các sản phẩm của vùng.

 

Quốc Thắng