214
+ aa -

Văn hóa - Giáo dục

Cập nhật lúc : 06/01/2020 13:42
Từ con số trên tấm thẻ đại biểu Quốc hội
Trong gia đình nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có hai hiện vật được lưu giữ liên quan đến hoạt động Quốc hội của ông. Ông là đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh, trúng cử tại cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6.1.1946). Do hoàn cảnh chiến tranh, Quốc hội Khóa I kéo dài đến giữa năm 1960, và Nguyễn Huy Tưởng cũng đã đảm đương cương vị đại biểu Quốc hội đến hết nhiệm kỳ, cho đến khi ra đi vì bạo bệnh (tháng 7.1960).
Tấm biển số 163 của đại biểu Quốc hội Nguyễn Huy Tưởng, tham dự Kỳ họp thứ Sáu (tháng 12.1956)

Trong hai hiện vật nói trên, xin được bắt đầu với tấm thẻ chứng nhận ông là đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh. Tấm thẻ màu xanh lá, có kích thước 14x11cm, khi gập đôi lại là 7x11cm. Thẻ do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ký ngày 25.2.1946. Bên dưới hàng chữ GIẤY CHỨNG MINH có ghi con số 162 - số thứ tự của ông trong số các đại biểu Quốc hội khi ấy. Nguyễn Huy Tưởng rất coi trọng tấm thẻ này. Tháng 10.1947, khi Pháp nhảy dù Bắc Kạn, cơ quan văn nghệ phải rút sâu vào rừng. Một hôm, giữa hai lần chạy giặc, các ông bàn nhau hủy giấy tờ tùy thân, đề phòng bị sa vào tay Pháp. Nguyễn Huy Tưởng đã phải xé đi tấm thẻ Văn hóa cứu quốc, nhưng ông “không nỡ xé thẻ QH [Quốc hội]”, như ông đã ghi lại trong nhật ký ngày 21.10.1947. Và ông viết thêm, như để bày tỏ sự trân quý, “Chữ ký của Chủ tịch những ngày rực rỡ”...

Hiện vật thứ hai có tuổi đời sau tấm thẻ nói trên đúng 10 năm. Đó là một tấm bìa màu xanh lơ, cỡ gần bằng khổ A4, trên có in sẵn một số nội dung để người sở hữu biết số đại biểu của mình và tự ghi tên mình lên. Số của Nguyễn Huy Tưởng, được in màu đỏ tươi trên nền xanh, là 163. Khi dự họp, nếu muốn phát biểu ý kiến, ông chỉ việc giơ tấm biển lên, Chủ tịch đoàn sẽ biết ông là ai và quyết định có mời ông nói hay không…

Ở đây, xin không bàn về việc các đại biểu Quốc hội nói chung, Nguyễn Huy Tưởng nói riêng, đã sử dụng tấm biển đó như thế nào, hay với nó, họ đã phát huy quyền đại diện tiếng nói của dân ra sao. Người viết bài này chỉ xin nhận xét về con số trên tấm biển của Nguyễn Huy Tưởng: 163, xin nhắc lại. Chênh với con số trên tờ Giấy chứng minh đúng một đơn vị!

Thoạt tiên, tôi cứ nghĩ đây là một sự ngẫu nhiên thú vị. Nhưng càng nghĩ, càng cảm thấy khó mà có chuyện “ngẫu nhiên” thế được. 162, sau 10 năm thành 163, hẳn phải có nguyên do gì đó chứ không thể vì một lý do lãng xẹt như sự tình cờ, hay do “thằng đánh máy”, hay vì... tính nhầm số người - những điều mà ngày nay, đôi khi ta vẫn thấy người ta nói lấy được để chạy tội cho những vụ việc động trời!

 

Giấy chứng minh số 162 của Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu Quốc hội Khóa I (1946) 

Với một cơ quan quyền lực như Quốc hội, tôi tin chắc trong một nhiệm kỳ, số thứ tự của mỗi đại biểu không thể tùy tiện thay đổi ở từng kỳ họp. Con số 162 của Nguyễn Huy Tưởng, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chứng nhận trên tấm thẻ của ông, lẽ ra phải luôn được giữ nguyên. Sự thay đổi con số, như ta thấy, chắc chắn chỉ có thể là do đã có sự thay đổi về nhân sự trong thành phần Quốc hội - thêm hay bớt số đại biểu trong thời gian 10 năm từ 1946 - 1956, dẫn đến sự đánh số cũng khác đi.

Lần ngược thời gian, chúng ta biết rằng, sau kỳ bầu cử Quốc hội khóa đầu, một số đảng phái ra sức công kích kết quả bầu cử, cho rằng đã có chuyện này chuyện kia, và tuyên bố bất hợp tác với chính phủ Cụ Hồ. Vì sự đại đoàn kết dân tộc, tránh nguy cơ đối đầu không có lợi cho công cuộc kháng chiến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với uy tín của mình, đã đề nghị Quốc hội mở rộng thành phần, tăng thêm một số đại biểu cho các đảng phái khác. Theo đó, đã bổ sung không qua bầu cử 70 đại biểu, trong đó Việt Nam Quốc dân đảng được thêm 50 người, và Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội 20 người.

Mặt khác, trong 10 năm từ 1946 - 1956, hẳn còn có những thay đổi khác nữa trong thành phần Quốc hội, như có người hy sinh trong kháng chiến, có người bị bãi nhiệm do theo giặc hay do tha hóa biến chất… Tất cả những yếu tố đó đã dẫn đến sự thay đổi trong con số đại biểu Quốc hội, cũng như số thứ tự của mỗi vị theo kiểu “dồn toa”.

Trên đây chỉ là một cách lý giải nhằm làm sáng tỏ một chi tiết rất nhỏ trong vô vàn sự kiện lớn lao đã diễn ra trong gần ba phần tư thế kỷ qua của Quốc hội Việt Nam. Song thiết nghĩ, từng cái riêng sẽ làm nên cái chung, từng cái nhỏ sẽ làm nên cái lớn. Hy vọng “chi tiết” nói trên sẽ góp phần gợi ra những mối quan tâm khác nữa làm phong phú thêm cho lịch sử của Quốc hội nước nhà.

 

daibieunhandan.vn