Khi so sánh chất lượng sách giáo khoa của chương trình phổ thông quốc gia Việt Nam với sách giáo khoa phương Tây, cụ thể là sách của chương trình phổ thông quốc tế Cambridge, chương trình phổ thông quốc gia Anh và chương trình phổ thông Tú tài quốc tế (IB), tôi thực sự cảm thấy thất vọng. Không chỉ ở mức độ chi tiết (sách của Việt Nam khoảng 200 trang khổ giấy A5 so với sách của họ khoảng 1.000 - 2.000 trang khổ giấy A4), mà còn về mức độ chính xác của ngôn ngữ khoa học sử dụng trong sách giáo khoa, đặc biệt là sách của các môn khoa học xã hội.
Sách giáo khoa, sách giáo trình là tài liệu tiêu chuẩn, và nó phải có tính khoa học, tính khách quan trung lập rất cao. Do vậy, ngôn ngữ của sách phải là ngôn ngữ khoa học (ngôn ngữ học thuật) mang tính khách quan, không cá nhân, không ca ngợi, phải mạch lạc, rõ ràng chứ không ám chỉ, không gây nhầm lẫn hoặc đa ý nghĩa, biểu đạt đúng thông tin...
Cùng là các môn khoa học xã hội, nhưng môn lịch sử và môn địa lý phải sử dụng chủ yếu thông tin sự kiện (fact) trong khi môn văn học sử dụng nhiều thông tin hư cấu (fiction). Tuy nhiên, ở rất nhiều chỗ trong sách giáo khoa lịch sử và địa lý của Việt Nam, ngôn ngữ văn học đã bị lẫn vào ngôn ngữ thông tin (factual, non-fiction) một cách kỳ quặc. Sách lịch sử thì phải căn cứ vào các nguồn thông tin khoa học như khảo cổ học, các nguồn sử liệu... chứ không thể trình bày các truyền thuyết, truyện kể dân gian… - vốn là các thể loại văn học. Sự lẫn lộn như vậy ít nhiều làm hỏng tư duy khách quan của học sinh, vì các em không thể phân biệt được đâu là “thực”, đâu là “hư”...
Chúng ta không nên để ngôn ngữ mang tính truyền thông, tuyên truyền lẫn vào ngôn ngữ khoa học. Tôi lấy ví dụ, sách giáo khoa các chương trình quốc tế trình bày sự kiện lịch sử rất chuẩn xác theo ngôn ngữ chính luận. Thứ nhất, họ luôn trích nguồn cho các thông tin đầy đủ, chu đáo. Số liệu là của ai, nguồn nào, có nhiều nguồn khác nhau không, số liệu có thống nhất hay sai lệch không, tất cả phải rõ ràng. Thứ hai, với các vấn đề tranh cãi, không có sự thống nhất, họ thường trích ra từ 2 đến thậm chí 8 - 10 nguồn khác nhau và hướng dẫn học sinh cách thảo luận vì sao có sự khác biệt. Ví dụ, về một sự kiện trong chiến tranh thế giới thứ 2, thì trích nguồn 1 học giả Đức, 1 học giả Nga, 1 học giả Mỹ, 1 nhà chính trị, 1 nhân chứng, 1 bài báo quốc tế, 1 cuốn hồi ký, 1 băng ghi âm, 1 bức hình… Đây là cách làm rất khoa học, nó dạy cho học sinh tư duy thận trọng trong khoa học, không tùy tiện đưa ngay ra một đánh giá mang tính quan điểm nếu chưa tham khảo kỹ các nguồn thông tin đa chiều, các ý kiến chuyên gia mà đôi khi mâu thuẫn nhau. Các em cũng dễ dàng phân tích được đâu là thông tin của những đối tượng liên quan hoặc không liên quan đến sự việc, những nguồn tin nào có động cơ lợi ích (người trong cuộc), những nguồn tin nào không có động cơ hay trung lập về lợi ích…
Chúng ta cũng nói mãi về sách giáo khoa địa lý “Đất nước ta rừng vàng, biển bạc, đất đai màu mỡ…”. Đó không phải là ngôn ngữ khoa học, mà là văn miêu tả. Ngôn ngữ khoa học lành mạnh phải chính xác, phi cá nhân (impersonal), ví dụ “Việt Nam có tổng diện tích rừng xxx hecta, có bờ biển dài xxx kilômét, bằng với quốc gia xxx…”.
Tôi cũng nhận thấy sách giáo khoa của Việt Nam không được thiết kế để hỗ trợ cho thảo luận, một phương pháp học đặc thù của các môn khoa học xã hội. Nếu sách giáo khoa chỉ có một chiều thẳng tắp từ giáo viên xuống học sinh, chúng ta sẽ tạo ra lối học tập độc đoán, trong đó giáo viên và sách giáo khoa là những khuôn khổ không thể tranh luận. Thực sự, với sách giáo khoa các môn khoa học xã hội của Việt Nam như hiện nay, một học sinh chỉ cần 1 tuần để đọc xong cả cuốn sách, chứ chẳng cần đến cả học kỳ hay cả năm học để dạy. Bởi vì ngoài nội dung sách sơ sài, đơn giản, một chiều phiến diện và được trộn vào rất nhiều thông tin mang tính chủ quan thì nó còn nghèo nàn về cách thiết kế các nội dung, hình ảnh, các hoạt động cho thảo luận, tranh biện.
Quan trọng hơn cả thông tin, là phương pháp tư duy và tinh thần khoa học. Cách làm của sách giáo khoa hiện tại, cùng với nhiều yếu tố lạc hậu khác của trường học, giáo viên, phương pháp, sẽ làm cho học sinh bị yếu kém về tư duy logic (ở mức căn bản nhất là không phân biệt nổi đâu là thông tin khách quan, đâu là thông tin chủ kiến), cũng như làm thui chột tư duy phản biện (các em bị áp đặt và tin rằng một sự việc thì chỉ có một cách đánh giá, lý giải chứ không có nhiều chiều kích, nhiều quan điểm, nhiều khía cạnh...)
Công việc soạn sách giáo khoa là công việc của một nhà khoa học, không phải của một nhà thực hành truyền thông. Chúng ta không phủ nhận đã có một thời, do hoàn cảnh chiến tranh, ngành giáo dục không có thời gian và nguồn lực để làm được những bộ sách giáo khoa chu đáo, do vậy đã sử dụng những tài liệu tuyên truyền đưa vào giảng dạy chính thống trong trường học. Cũng có thể chúng ta bị cuốn theo những cảm xúc của thời đại mà không có sự bình tâm cần thiết để soạn sách cho khách quan. Nhưng bối cảnh đất nước đã khác đi, chúng ta đã có nhiều thời gian, có chuyên gia, có Internet, có những bộ sách giáo khoa khác của các nước để so sánh. Vậy tại sao chúng ta vẫn bằng lòng với những cuốn sách giáo khoa kém chất lượng như hiện tại, nghèo nàn cả về nội dung thông tin, cũng như sai sót về phương pháp khoa học?
“Sách giáo khoa của Việt Nam không được thiết kế để hỗ trợ cho thảo luận, một phương pháp học đặc thù của các môn khoa học xã hội...”
daibieunhandan.vn