Cuốn hút mọi tầng lớp
Nói Nguyễn Du, ở thời điểm hôm nay - kỷ niệm 250 năm sinh - là nói đến những kỷ lụcmà trước ông và sau ông chưa ai sánh được. Một khối lượng trang viết về ông trên hàng trăm pho sách, hàng chục vạn trang, không lúc nào ngưng nghỉ, trong ngót 200 năm, và càng về sau càng dày, càng nặng. Một số lượng người đọc không thể nào tính hết, vì đó là sự cuốn hút khắp mọi tầng lớp cư dân, bất kể địa vị xã hội, thành phần sang hèn, kể từ ông vua tự nhận là hay chữ đến tầng lớp bình dân chưa hề biết chữ, trong đó không hiếm những người thuộc lòng hàng nghìn câu thơ Kiều, thậm chí có thể đọc ngược nhiều đoạn.
Một sự đọc không theo các phương thức quen thuộc mà rất linh hoạt, biến hóa để mở rộng trường diện hứng thú cho sự thưởng thức, tùy thuộc vào những nhu cầu tinh thần khác nhau của nhiều lớp người. Đó là lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, xướng họa về Kiều cho các bậc trí thức, các tao nhân mặc khách; và bói Kiều cho mọi tầng lớp cư dân.
Những kỷ lục như trên diễn ra chung quanh Truyện Kiều; và nói Truyện Kiều là nói Nguyễn Du, người sáng danh nhất không chỉ trong nền văn chương Việt trung đại mà là cả lịch sử văn chương Việt.
2 lần ra thế giới
Nguyễn Du chính là người đầu tiên của văn chương Việt được nhân loại tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1965 - nhân kỷ niệm 200 năm sinh, do Hội đồng Hòa bình thế giới trao tặng. Cũng chính ông, lần thứ hai được UNESCO tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới, vào năm 2015 - nhân 250 năm sinh, sau Nguyễn Trãi năm 1980, nhân 600 năm sinh, và Hồ Chí Minh năm 1990, nhân 100 năm sinh. Vậy là hai lần Nguyễn Du đi ra thế giới trong tư cách một tác gia văn chương Việt.
Đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Du là một tác gia lớn, với sự nghiệp viết không thực đồ sộ nhưng có giá trị kết tinh cao. Trước hết đó là ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập(78 bài), Nam Trung tạp ngâm (34 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài) in rất đậm bản sắc và bản lĩnh cá nhân một hồn thơ giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân. Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, với Văn tế thập loại chúng sinh, 184 câu song thất lục bát, dồn chứa sự cảm thông cùng tận với tất cả thân phận khổ đau, bất hạnh. Trước đó là hai tác phẩm ngắn ở tuổi hoa niên: Thác lời trai phường nón và Sinh tế Trường Lưu nhị nữ…
Chỉ bấy nhiêu thôi, Nguyễn Du cũng đã đủ tư cách một tác gia tiêu biểu của văn chương Việt Namtrung đại như nhiều tên tuổi khác trước và sau ông. Thế nhưng Nguyễn Du còn là tác giả của Truyện Kiều; và đây mới thực là sự kiện làm thay đổi tầm vóc, khiến cho Nguyễn Du trở thành một đỉnh cao của văn chương Việt. Như Thần khúc của Dante, Phaux của Goethe, ÉpghênhiÔnêghin của Puskin, Truyện Kiều là kết quả thăng hoa đột xuất của Nguyễn Du. Trên dưới 35 văn bản dịch Truyện Kiều của hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới trong hơn một thế kỷ qua, và vẫn còn đang được tiếp tục - đó là đường biên rộng nhất cho sức lan tỏa của một tác phẩm.
Vượt thoát ngoạn mục
Cái tên Truyện Kiều gần như hàm chứa đầy đủ và súc tích nhất nội dung của kiệt tác, nếu ta theo dõi lịch sử thay đổi của tên sách, bắt đầu từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, chuyển sang Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, rồi Kim Vân Kiều tân truyện, theo san nhuận của Phạm Quý Thích, và cuối cùng là Truyện Kiều (hoặc Kiều - nói tắt). Cái tên mới này ra đời vào lúc nào, ở bản in nào tôi chưa được biết, nhưng theo tôi hiểu thì đó chưa hẳn đã là chủ đích của Nguyễn Du, nhưng lại phù hợp hơn cả với tâm thế tiếp nhận của người đọc dân tộc.
Bởi Truyện Kiều, trước hết và chủ yếu là truyện về (hoặc của) một nhân vật có tên Thúy Kiều. Qua cách kể, tả, dựng của Nguyễn Du thì đó là nhân vật có sứ mệnh gánh chịu nỗi đau cho một nửa nhân loại: Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (Truyện Kiều) hay Đau đớn thay phận đàn bà/Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?(Văn tế thập loại chúng sinh). Khác với tất cả các nhân vật nữ trong tất cả các truyện Nôm khuyết danh hoặc có tên tác giả ra đời trong hai thế kỷ XVIII và XIX như Ngọc Hoa, Cúc Hoa, Dao Tiên, Ngọc Khanh, Trương Quỳnh Như… cho đến Kiều Nguyệt Nga, Kiều không có vướng víu gì với lễ giáo phong kiến để mà chống lại nó hoặc tìm cách dung hòa, thỏa hiệp với nó. Kiều cũng không phải vất vả đi tìm tự do cho tình yêu, để đối mặt với những lực cản cho tình yêu. Bởi Kiều rất chủ động trong tình yêu. Trước và sau 15 năm chìm nổi, Kiều có đến ba mối tình, và mối tình nào cũng có dư vị.
Sau 15 năm ê chề trong thân phận ong qua bướm lại, buộc phải biết “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”, phải hiểu “nước vỏ lựu, máu mào gà”, vậy mà khi gặp lại Kim Trọng, Kiều vẫn tin tưởng còn một chữ “trinh” để dành cho người yêu đầu. Có nàng Kiều nào trong đời, và trong văn chương, từ cổ điển đến hiện đại đạt được một sự sống lung linh và đầy đặn đến thế! Sự sống của một nhân cách tự do, vượt lên nhân quần bằng cả sắc và tài.
Thế nhưng Kiều lại phải gánh chịu một sự đầy đọa trên khắp mặt sự sống nhân gian chồng chất oan khổ. Và đây là sự vượt thoát của Nguyễn Du, để qua Kiều, sau Kiều mà tạo dựng cả một xã hội với rất nhiều gương mặt đại diện, kể từ thằng bán tơ, qua Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Khuyển Ưng, Khuyển Phệ… cho đến Hồ Tôn Hiến. Trước những áp lực đến từ thế giới đó, Kiều đã phải bao lần thay thân đổi phận. Cũng không nhân vật nào trong lịch sử văn chương Việt phải chịu sự bủa vây dày đặc những mắt lưới oan khiên đến thế!
Tôi muốn nói ở đây, với Truyện Kiều, và với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tạo được một giao thoa giữa tư duy nghệ thuật cổ điển và hiện đại. Tức là một vượt thoát ngoạn mục bộ đồng phục của văn chương cổ điển với mọi ước thúc, ràng buộc chật chội của nó, sang bộ cánh hiện đại khiến cho bất cứ người đọc nào trong chúng ta hôm nay cũng không thấy bỡ ngỡ hoặc xa lạ.
Đại biểu nhân dân