Ngày kinh hoàng
Ngày 20.4 được coi là ngày kinh hoàng đối với ngành dầu mỏ Mỹ khi giá “vàng đen” rơi xuống mức không ai có thể tưởng tượng được, âm 37,63 USD/thùng. Trong khi đó, chỉ một tuần trước, giá dầu thô WTI trên sàn New York vẫn giao dịch ở mức 18,27 USD/thùng. Nguyên nhân cho sự sụp đổ này một phần bắt nguồn từ yếu tố kỹ thuật khi mà nhu cầu giảm mạnh, cộng thêm nhiều hợp đồng dầu quan trọng được giao trong tháng 5 lại hết hạn vào ngày 21.4. Trong bối cảnh kho lưu trữ không còn nhiều chỗ trống, thương nhân buộc phải “bán tống, bán tháo”, đẩy giá “vàng đen” rớt thê thảm. Đã thế, số khách hàng mua dầu WTI giao tháng 5 lại rất ít vì không ai muốn mua dầu vào lúc này.
Có thể nói, hành động bán tháo phản ánh thực trạng thị trường dầu mỏ tại Mỹ đang dư thừa, trong bối cảnh hoạt động kinh tế và công nghệ bị đình trệ do dịch Covid-19 khiến nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh. Giá dầu lao dốc còn phản ánh lo ngại về lượng cung dư thừa sắp xuất hiện. Đó là dầu xuất đi từ các quốc gia thuộc Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) từ tháng 3. Thực vậy, tình trạng dư cung trên thị trường toàn cầu đang là yếu tố gây áp lực lớn cho giá dầu.
Mặc dù các nước sản xuất dầu đã ký thỏa thuận giảm sản lượng khai thác nhưng mức giảm đó không kịp để tránh bế tắc trong vài tuần tới. Hồi đầu tháng, OPEC và các nước đối tác đã nhất trí giảm sản lượng khai thác 9,7 triệu thùng/ngày để kiểm soát nguồn cung, nhưng phải đến ngày 1.5 thỏa thuận mới có hiệu lực. Theo diễn biến mới nhất của giá dầu, Ảrập Xêút đang xem xét kế hoạch cắt giảm sản lượng sớm nhất có thể, thậm chí trước thời điểm dự kiến ngày 1.5.
Có thể dễ dàng nhận thấy, giá dầu rơi xuống mức thấp kỷ lục như vậy là dấu hiệu rõ nhất của những tổn hại kinh tế thời dịch bệnh. Các nhà kinh tế ước tính, nhu cầu dầu đã bị cắt giảm tới 1/3 trên toàn thế giới. Nguồn cung quá mức chỉ làm cho tình hình tồi tệ thêm. Hôm thứ Ba vừa qua, giá dầu Brent, vốn được coi là chuẩn mực thế giới, lần đầu tiên xuống dưới 20 USD/tháng trong vòng 18 năm qua.
Sự sụp đổ giá dầu đã giáng một đòn đau vào Tổng thống Donald Trump, bởi trước đó ông cố gắng bình ổn giá sau khi bảo đảm OPEC và các nước đối tác cắt giảm sản lượng từ tháng tới. Tuy nhiên, thỏa thuận trên đã được chứng minh là “quá ít, quá muộn”. Thực sự, đây không phải cú sốc giá ngắn hạn. Chỗ lưu trữ sẽ tiếp tục thiếu trong một thời gian nữa, trong khi nhu cầu dầu cũng không thể phục hồi ngay. Người ta tính toán, hơn 40% nhu cầu dầu đến từ ô tô và xe tải, mà hoạt động đi lại bằng các phương tiện này đang bị hạn chế.
Nguy cơ phá sản hàng loạt
Giá dầu giảm chính là điềm xấu đối với ngành năng lượng. Các công ty dầu mỏ lớn đã không còn được nhà đầu tư và công chúng ủng hộ vì tác động của nó đối với biến đổi khí hậu. Sự hoảng loạn trên thị trường hiện nay đồng nghĩa với việc các công ty buộc phải đẩy nhanh kế hoạch tái cấu trúc và cắt giảm thanh toán cổ tức. Những đại gia trong ngành năng lượng như BP hay ExxonMobil sẽ phải tăng chi tiêu cho các dạng năng lượng thay thế. Theo ghi nhận gần đây của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, đầu tư trung bình của các công ty dầu khí vào những lĩnh vực không cốt lõi chỉ chiếm gần 1% tổng chi tiêu vốn.
Nhiều nhà sản xuất dầu ở Mỹ, những người mở rộng kinh doanh nhờ các gói tín dụng giá rẻ, sẽ phải chịu tổn thất lớn nhất. Công ty nghiên cứu thị trường Rystad Energy nhận định, nếu giá dầu ở mức 20 USD/thùng, tính đến cuối năm 2021, sẽ có 533 công ty sản xuất và khai thác dầu mỏ của Mỹ phải đệ đơn xin phá sản. Trong trường hợp giá dầu duy trì ở mức 10 USD/thùng, hơn 1.100 công ty sẽ sạt nghiệp.
Vì vậy, Tổng thống Donald Trump đã cam kết đưa ra gói cứu trợ dành cho ngành công nghiệp này, bao gồm cung cấp không gian chứa dầu trong Khu dự trữ dầu khí chiến lược. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia phân tích cho rằng, những hứa hẹn cho ngành năng lượng nên mang tính ngắn hạn và “có qua, có lại”. Theo họ, tuy giá dầu sụp đổ nhưng nó lại mang đến cơ hội mà chính quyền Mỹ nên nắm bắt. Trong thời điểm khả năng tiêu thụ hoàn toàn dừng lại, đây sẽ là thời cơ thích hợp để thực hiện các lời kêu gọi lâu nay là đưa ra thuế carbon quốc gia. Ít nhất, các khoản cứu trợ nên có điều kiện kèm theo như buộc các công ty được giúp đỡ phải có kế hoạch khử carbon.
Việc đẩy giá dầu lên một cách giả tạo thường mang đến hậu quả tồi tệ, nhưng khi các nhà máy đóng cửa và hàng triệu người phải ở nhà phòng dịch Covid-19, dầu giá rẻ hầu như không thúc đẩy được sức chi tiêu. Giá thấp cũng gây thiệt hại cho các quốc gia sản xuất nghèo hơn. Chương trình nghị sự xanh đòi hỏi thay đổi căn bản sự phụ thuộc vào dầu. Nhưng nếu năng lực sản xuất bị tiêu diệt quá nhanh, giá dầu có thể tăng mạnh hơn, gây ra cú sốc kinh tế đau đớn khác trước khi sự chuyển đổi quan trọng đó thành hiện thực.
daibieunhandan.vn