
Ra nghị quyết và tuyên bố
Hàng năm, các nghị sĩ trình rất nhiều dự thảo nghị quyết (có thể do cá nhân trình hoặc liên danh trình) thể hiện ý định của Hạ viện, Thượng viện hay toàn thể Quốc hội về chính sách đối ngoại. Khá nhiều trong số đó được thông qua. Tất nhiên, hiệu quả của những tuyên bố loại này thường bị nghi ngờ bởi nghị quyết của Quốc hội không có giá trị ràng buộc.
Dẫu vậy, đôi khi những nghị quyết kiểu này đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại dưới dạng khởi xướng một ý tưởng mới. Nghị quyết 71 do Thượng viện thông qua năm 1973 kêu gọi ký kết thỏa thuận quốc tế cấm hoạt động biến đổi môi trường hoặc địa chất nhằm mục đích chiến tranh. Một thỏa thuận như thế cuối cùng đã được Mỹ thông qua vào năm 1979.
Các phiên điều trần phục vụ việc xem xét các nghị quyết trên cũng thường tạo ra động lực dẫn đến một chính sách mới, dù nghị quyết đó có thể không được thông qua. Năm 1967, Thượng nghị sĩ Pell đệ trình dự thảo Nghị quyết 172 liên quan đến kiểm soát quốc tế về hoạt động dưới đáy biển. Nghị quyết này không được thông qua do Chính phủ phản đối, nhưng ý tưởng của nghị quyết đã đưa đến việc ký kết Hiệp ước Kiểm soát vũ khí vùng đáy biển năm 1971.
Các nghị quyết cũng đóng vai trò như một tuyên bố chính sách của Quốc hội đối với cộng đồng quốc tế. Chẳng hạn, Thượng viện Mỹ ngày 10.7.2014, với 100% phiếu thuận, đã thông qua nghị quyết số S.RES.412 về an ninh hàng hải Biển Đông, trong đó, yêu cầu Trung Quốc thiết lập lại nguyên trạng Biển Đông như trước ngày 1.5.2014 (thời điểm Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam). Nghị quyết nêu rõ mặc dù không phải là một bên có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, Mỹ là một cường quốc ở châu Á - Thái Bình Dương, có lợi ích quốc gia gắn với việc giải quyết các tranh chấp tại khu vực này bằng biện pháp ngoại giao và hòa bình, chứ không phải qua sự áp đặt hoặc đe dọa bằng vũ lực. Nghị quyết đồng thời liệt kê hàng loạt hành động của Trung Quốc mà các nghị sĩ Mỹ cho là vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển (UNCLOS).
Ban hành luật
Đôi khi Quốc hội tham gia trực tiếp vào hoạt động đối ngoại bằng cách thiết lập một chương trình, đặt ra các mục tiêu, định hướng nhánh hành pháp thực thi những hoạt động cụ thể, hoặc phân bổ ngân sách cho các hoạt động đó. Nhánh hành pháp thường có ảnh hưởng đến những chính sách được ban hành theo cách này, bởi các nghị sĩ thường xuyên tham vấn ý kiến của Chính phủ trong quá trình định hình chính sách. Tổng thống phải thông qua dự luật đó trừ khi nó được thông qua sau khi Tổng thống đã phủ quyết. Thêm vào đó, nhánh hành pháp mới là bên thi hành chính sách trên thực tế.
Ví dụ năm 1997 và 1998, Quốc hội tập trung ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cường các hoạt động thúc đẩy tự do tôn giáo trên toàn cầu. Đạo luật trên cũng định ra các biện pháp cấm vận nhằm vào các quốc gia có xâm phạm nghiêm trọng tới quyền tự do tôn giáo. Đạo luật này sau đó bị nhiều nước chỉ trích là sự can thiệp thô bạo của Mỹ vào công việc nội bộ của các nước khác.
Biện pháp tài chính
Quốc hội thể hiện vai trò rõ rệt nhất trong chính sách đối ngoại khi đưa ra những luật cấm hoặc hình thức pháp lý khác nhằm hạn chế Tổng thống tự do hành động trong các vấn đề đối ngoại. Thông thường, những biện pháp này được thực hiện dưới hình thức sửa đổi đạo luật ủy quyền hoặc phân bổ ngân sách mà Tổng thống khó có thể chống đối. Việc Quốc hội sử dụng các biện pháp hạn chế hoặc thể hiện “sức mạnh của ví tiền” từ chối phân bổ ngân sách cho Chính phủ thực hiện chính sách đối ngoại.
Trong suốt thời chính quyền Reagan, Quốc hội đã luật hóa nhiều lệnh cấm và giới hạn viện trợ quân sự cho các nước Trung Mỹ. Ví dụ, năm 1983, Quốc hội đã hạn chế số tiền có thể được chi cho hoạt động tình báo của Mỹ, nhằm hỗ trợ những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua. Năm 1987, sau khi chính phủ các nước Trung Mỹ ký hiệp ước hòa bình, Quốc hội Mỹ đã cắt viện trợ quân sự cho lực lượng du kích nổi dậy Contras ởNicaragua. Năm 1988, Quốc hội chỉ cho phép Mỹ hỗ trợ phi sát thương.
Năm 1992, Quốc hội Mỹ đã cấm thử nghiệm bất kỳ loại vũ khí hạt nhân nào cho đến ngày 1.7.1993. Sau thời gian đó, Quốc hội cho phép sử dụng ngân quỹ vào các vụ thử hạt nhân, nhưng chỉ với điều kiện hoạt động này phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn và các điều kiện nghiêm ngặt, bao gồm một kế hoạch nhằm đạt được lệnh cấm thử nghiệm toàn diện đa phương.
Khuyến nghị phi chính thức
Thông thường, các thành viên của Quốc hội định hình chính sách đối ngoại bằng cách đưa ra lời khuyên cho nhánh hành pháp thông qua hình thức liên lạc không chính thức. Những lời khuyên như vậy có thể được đưa ra tại cuộc họp giữa Tổng thống và các nghị sĩ, nơi không có quyết định chính thức nào được xem xét, nhưng sáng kiến chính sách có thể được Tổng thống tiếp thu.
Một ví dụ là quyết định của Tổng thống Eisenhower không can thiệp quân sự ở Đông Dương vào năm 1954. Tại một cuộc họp ngày 3.4.1954, Ngoại trưởng Dulles và các quan chức hành pháp khác gặp lãnh đạo Quốc hội, trong đó có thủ lĩnh phe đa số trong Thượng viện William Knowland, lãnh đạo phe thiểu số Lyndon Johnson, Chủ tịch Thượng viện Joseph Martin... Ngoại trưởng Dulles cho biết, sau cuộc gặp, Quốc hội đã nhất trí không ra nghị quyết ủng hộ việc can thiệp quân sự ở Đông Dương cho đến khi Mỹ nhận được các cam kết hỗ trợ từ những quốc gia khác. Không có sự bảo đảm hoặc ủng hộ của Quốc hội hoặc đồng minh, Tổng thống Eisenhower đã quyết định không can thiệp quân sự.
Đại biểu nhân dân