Đại dịch sẽ kéo dài bao lâu?
Trong lịch sử, có hai đại dịch liên quan đến virus Corona là dịch SARS (hội chứng viêm đường hô hấp cấp) và dịch MERS (hô hấp cấp vùng Trung Đông). Còn nhớ, trong dịch SARS năm 2002 - 2003, trường hợp nhiễm bệnh đầu tiên được ghi nhận là vào tháng 11.2002, nhưng lúc đó các quan chức y tế không xác định chứng bệnh này là gì và SARS được xếp loại bằng triệu chứng của nó, vốn tương tự như bệnh viêm phổi. Hàng tháng sau, đại dịch mới được báo cáo cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vào tháng 2.2003, khi đã có hơn 300 trường hợp thiệt mạng. SARS bùng phát khoảng 6 tháng với hơn 8.000 ca nhiễm và giết chết 774 người.
Trong khi đó, MERS lần đầu tiên được phát hiện ở Ảrập Xêút vào tháng 9.2012 và theo WHO khoảng 35% số bệnh nhân bị nhiễm đã tử vong vì virus MERS-Corona này. Đến năm 2015, dịch bùng phát mạnh riêng ở Hàn Quốc khi mà người bị nhiễm đầu tiên được phát hiện vào tháng 5. Tuy nhiên, sau đó 2 tháng nó đã được dập tắt cho dù đất nước kim chi đã xác nhận có 186 ca nhiễm và 38 người thiệt mạng.
Đại dịch hiện nay gây ra bởi một chủng virus Corona mới, đang được gọi với cái tên 2019-nCov, lần đầu tiên được báo cáo WHO vào ngày 31.12.2019 sau khi phát hiện nhiều ca nhiễm ở Vũ Hán. Sau đó 1 tháng, đánh giá sự nghiêm trọng việc lây lan virus này, WHO đã ra tuyên bố, sự bùng phát chủng virus Corona mới là “tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu”. Các quốc gia lập tức hành động nhanh chóng để ngăn đại dịch lan rộng. Nếu nhìn lại đại dịch SARS, tỷ lệ tử vong có sự khác nhau theo từng độ tuổi, ít hơn 1% số người từ 24 tuổi trở xuống, 6% số người từ 25 - 44 tuổi, 15% số người từ 45 - 64 tuổi và hơn 50% số người từ 65 tuổi trở lên. Trong khi đó, số ca tử vong do 2019-nCov chủ yếu ở người cao tuổi. Tuy nhiên, cái chết gần đây của một phụ nữ 37 tuổi ở Trung Quốc được cho là độ tuổi trẻ nhất trong đợt dịch hiện tại khiến người ta phải chờ nghiên cứu thêm về sự nguy hiểm của nó so với những đại dịch cũ cũng do virus Corona gây ra.
Sự lây lan của 2019-nCoV nhanh hơn nhiều so với SARS. Đợt SARS bùng phát đã phát hiện 8.000 ca nhiễm trong vòng 8 tháng, trong khi nCoV đã gần con số đó trong vòng chỉ vài tuần. Tuy nhiên, so với các đợt dịch trước, lần này, thế giới đã vào cuộc kịp thời và nhanh hơn với hy vọng dập dịch nhanh nhất có thể.
Kinh tế chịu trận
Một trong những “nạn nhân” chịu tác động tiêu cực trực tiếp nhất của dịch nCoV lần này chính là kinh tế thế giới, trong đó những ngành bị điểm danh ngay là vận tải, dịch vụ và đặc biệt là du lịch. Việc ngừng các hoạt động quá cảnh, hạn chế đi lại đã ngăn cản tiêu dùng, khách du lịch quốc tế tránh xa Trung Quốc, trong khi người bản địa cũng ngừng đi tham quan bên ngoài. Đợt Tết Nguyên đán vừa qua là cao điểm du lịch ở Trung Quốc với hàng triệu người đã lên kế hoạch đi du lịch nước ngoài, song số đi thực tế đã giảm tới 40% so với năm 2019.
Trung Quốc là thị trường khách du lịch nước ngoài lớn nhất thế giới, tăng vọt từ 4,5 triệu người năm 2000 lên tới 150 triệu người năm 2018. Trong những năm 2020, con số trên được dự báo sẽ tăng gấp đôi khi tỷ lệ người sở hữu hộ chiếu tại Trung Quốc tăng từ mức 10% dân số hiện tại lên 20%. Du khách Trung Quốc cũng là nhóm chi tiêu du lịch nhiều nhất thế giới, chiếm tới 16%, tương đương 277 tỷ USD, trong tổng số chi tiêu du lịch quốc tế toàn cầu, theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO).
Sau lệnh cấm du lịch theo đoàn và đặt chương trình trọn gói gần đây, các điểm du lịch tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ chứng kiến sự sụt giảm lượng du khách Trung Quốc mạnh nhất. Khu vực này vốn phụ thuộc lớn vào du khách Trung Quốc (Thái Lan chiếm tới 30%, Australia là 15%). Theo Hội đồng Du lịch Thế giới, năm 2018, chỉ riêng Trung Quốc đóng góp tới 51% doanh thu du lịch tại đây. Ngoài ra, các điểm du lịch tại châu Âu và châu Mỹ, vốn ít phụ thuộc hơn vào du khách Trung Quốc, cũng sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng. Tại Pháp, nơi đón 2 triệu du khách Trung Quốc mỗi năm, Hiệp hội Lữ hành Trung Quốc tại Pháp (ACAV) đã dừng tất cả hoạt động và dự báo sẽ bị “thiệt hại lớn”. Theo ACAV, tính từ đầu năm đến nay, doanh thu của các công ty lữ hành thành viên đã giảm ít nhất 33%.
Dù hiện tại còn quá sớm để tính toán thiệt hại về kinh tế vì những ảnh hưởng tới ngành du lịch trên toàn cầu phụ thuộc chủ yếu vào thời gian kéo dài của dịch nCoV. So sánh với các thảm họa trong quá khứ, dịch SARS năm 2002 - 2003 gây thiệt hại khoảng 30 - 50 tỷ USD cho kinh tế thế giới. Trung Quốc mất 16 tháng để phục hồi lượng du khách quốc tế hậu khủng hoảng. May mắn là lần này chính quyền Bắc Kinh đã không chỉ hành động nhanh hơn so với dịch SARS, mà còn minh bạch thông tin hơn với cộng đồng quốc tế. Vì thế, các chuyên gia tỏ ra lạc quan về khả năng phục hồi của ngành du lịch nước này.
Như chúng ta đều biết, thế giới không chỉ kết nối với nhau qua internet mà còn qua các thị trường. Là nền kinh tế lớn thế hai thế giới, bất cứ biến động nào trong dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc chắc chắn sẽ tác động đến sự suy giảm toàn cầu. Việc khởi phát virus Corona chủng mới ở Vũ Hán khiến nhiều nhà kinh tế thế giới đứng ngồi không yên. Người ta từng ước tính, đợt dịch SARS đã tác động đến tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ 1,1 - 2,6 %. Trong khi đó, mất 1% GDP, nền kinh tế nước này sẽ đi tong hơn 136 tỷ USD. Do vậy, nhiều chuyên gia dự báo sự tàn phá đối với nền kinh tế thế giới của nCoV cũng có thể tương tự, tùy thuộc vào việc dập dịch nhanh chóng đến đâu. Thậm chí, nhiều người cho rằng hậu quả của dịch nCoV hiện nay đối tới toàn cầu có lẽ không thể so sánh với SARS. Bởi giờ đây, Trung Quốc chiếm thị phần lớn hơn nhiều trong nền kinh tế thế giới. Nếu năm 2003, đất nước gấu trúc chỉ chiếm 7,5% GDP toàn cầu thì nay tỷ lệ đó là hơn 20%. Bên cạnh đó, quốc gia đông dân nhất thế giới cũng đã trở thành một phần chính của chuỗi giá trị toàn cầu, mà (nếu bị phá vỡ) có thể ảnh hưởng lớn đối với các công ty quốc tế.
Thực tế, tác động của nCoV đã được thấy rất rõ qua những chỉ số tụt giảm của các thị trường chứng khoán toàn cầu. Chỉ số thị trường chứng khoán tổng hợp Thâm Quyến và Thượng Hải đã giảm lần lượt 3,52% và 2,75% trước khi kết thúc kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, thể hiện tâm lý tiêu cực của các nhà đầu tư. Tình cảnh tương tự cũng diễn ra ở các thị trường chứng khoán ở Nhật Bản, Mỹ và châu Âu.
daibieunhandan.vn