Khó có “bão”...
Trong vòng 8 tháng trở lại đây, đồng ringgit và rupiah có mức giảm dần đều. Trong khi cùng mức thời gian đó, kể từ ngày 11.7.1997 đến 22.1.1998, đồng bath, won và rupiah đã rơi với tốc độ tương đối nhanh và mạnh, với các mức tương ứng là 38%, 51% và 80%. Vào thời điểm Chính phủ Thái Lan áp dụng chính sách thả nổi đồng bath, giá trị của đồng tiền này lập tức giảm từ 15 - 20% chỉ trong vòng 1 ngày. Lãi suất trong nước quá cao đã thúc đẩy các công ty tìm sự hỗ trợ tài chính ở nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài ồ ạt rút khỏi các quốc gia trên, gia tăng sức ép lên thị trường chứng khoán... Điều đó đã thực sự tạo nên một bức tranh kinh tế tài chính cực kỳ hỗn loạn cho các quốc gia mới nổi này trong thời khắc những năm cuối thập kỷ 90.
Câu chuyện cách đây gần 20 năm giờ đã khác. Sau bài học khủng hoảng, chính phủ các quốc gia đã có những công cụ và chính sách điều hành kinh tế vĩ mô hợp lý hơn như: thả nổi tỷ giá, giữ mức thặng dư đối với các tài khoản vãng lai... Dự trữ ngoại hối của các quốc gia này cũng lớn hơn rất nhiều (ngoại trừMalaysiavừa giảm xuống mức dưới 100 tỷ USD lần đầu tiên trong vòng 5 năm trở lại đây). Hệ thống ngân hàng phát triển mạnh hơn, với lượng tiền gửi dồi dào hơn. Và dẫu cho việc giá dầu giảm đang kéo đồng ringgit giảm theo, hay những cạnh tranh mang tính dài hạn đang gây không ít cản trở choIndonesia..., nền kinh tế các nước này vẫn có thể xử lý được các vấn đề liên quan đến dòng vốn đầu tư nước ngoài...
... nhưng “gió giật” không nhẹ
Tuy nhiên, dù chính phủ các nước đã được trang bị tốt hơn để đối phó với chiến tranh tiền tệ và rất có thể không xảy ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng nhưng đồng nội tệ ở các thị trường mới nổi đang phải chịu một tác động rất mạnh từ việc giảm giá hàng hóa, sự suy giảm của kinh tế Trung Quốc cũng như động thái tăng lãi suất tới đây của Mỹ. Nhu cầu toàn cầu suy giảm khiến cho tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm nay sẽ thấp hơn. Nếu đồng nhân dân tệ tiếp tục giảm, mọi thứ còn tồi tệ hơn nữa. Tháng trước, xuất khẩu củaIndonesiađã giảm gần 30% so với cùng kì năm trước, phần nào phản ánh sự đình trệ của khu vực. Dĩ nhiên, cũng có một số tính toán cho rằng phá giá tiền tệ sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu. Song, điều này cũng đem lại những rủi ro tương đối lớn.
Thêm vào đó, việc nhiều chuyên gia dự báo Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ nâng lãi suất vào tháng 9 tới sẽ gia tăng áp lực cho các quốc gia mới nổi, đặc biệt là khu vực châu Á trong nhiều phương diện. Tăng lãi suất sẽ làm tăng thêm tài sản cho Mỹ, khiến đồng USD trở nên mạnh hơn. Đối với các chính phủ, các công ty và hộ gia đình ở các nước đang phát triển đang phải vay mượn hàng nghìn tỷ USD, lãi suất và các khoản nợ phải trả sẽ tăng chóng mặt so với đồng nội tệ. Theo “Vua trái phiếu” Bill Gross - đồng sáng lập Pacific Investment Management Co, “nếu lo ngại về các khoản nợ sẽ làm thất thoát vốn, ngân hàng trung ương ở các quốc gia có nền kinh tế yếu sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn giữa việc hạ giá nội tệ và siết chặt lãi suất. Lựa chọn thứ nhất sẽ làm gánh nặng nợ nước ngoài trở nên bi thảm hơn, còn khả năng thứ hai sẽ kiềm chế tăng trưởng”.
Xét cho cùng, vẫn cần phải chờ đợi phán quyết cuối cùng từ FED. Mọi sự phỏng đoán hiện tại chỉ khiến đồng “bạc xanh” trở nên mạnh hơn. Song, nếu điều đó diễn ra theo từng bước đi được cân nhắc cụ thể, các quốc gia mới nổi, có thể phần nào bớt đi nỗi lo lắng cho chính mình.
Người ta ít nhiều tin rằng các quốc gia ngày nay, với hệ “miễn dịch” tốt hơn có thể đề kháng được với những cú sốc về tiền tệ như thế này. Tuy vậy, những tác động của hai yếu tố trên vẫn thực sự là mối đe dọa lơ lửng với nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế châu Á nói riêng.
Người đại biểu nhân dân