Theo các nhà kinh tế, Trung Quốc có thể còn mong muốn xây dựng một kiến trúc tài chính mới để thay thế hệ thống do phương Tây lập ra, trong đó, đồng nội tệ của nước này sẽ giữ vị trí quan trọng, có thể thay thế đồng USD trong tương lai không xa. Suy đoán này là khá logic khi phân tích những diễn biến thực tế liên quan tới sự ra đời của AIIB kết hợp với chính sách quốc tế hóa đồng NDT mà Bắc Kinh triển khai mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ, chiếm thị phần lớn trong thương mại toàn cầu và có kho dự trữ ngoại hối khổng lồ. Chính bởi điều này, đồng NDT đã được các đối tác thương mại sử dụng như là một phương tiện trao đổi, một đơn vị trao đổi giá cả và giải quyết các vấn đề thương mại song phương với Bắc Kinh. Việc sử dụng đồng NDT trong giao dịch thương mại khu vực đang gia tăng nhanh chóng sau khi các cơ quan chức năng Trung Quốc cho phép một số doanh nghiệp tại các thành phố lớn được giao dịch trực tiếp thông qua đồng NDT. Nhập khẩu ngày càng sử dụng nhiều đồng NDT trong khi xuất khẩu vẫn chủ yếu sử dụng đồng USD.
ASEAN đã sử dụng đồng NDT một cách tự nhiên, và sau đó “lần lượt các quốc gia trong khu vực sử dụng đồng tiền này như một điểm tham chiếu để xác định các giá trị bên ngoài của đồng tiền, làm lu mờ đồng USD và đồng euro”. Thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN tăng nhanh sau khi thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA), có hiệu lực từ tháng 1.2010.
Việc sử dụng đồng NDT như đồng tiền quốc tế cho thấy sự sẵn sàng của Trung Quốc để đóng một vai trò lớn hơn trong việc quản lý nền kinh tế toàn cầu. Đồng tiền này ngày càng phổ biến trong thương mại toàn cầu cho thấy cộng đồng quốc tế tin tưởng vào sự ổn định như một tài sản an toàn cũng như vai trò tương lai của đồng tiền này trong hệ thống tiền tệ quốc tế.
Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định Bắc Kinh sẽ phải tốn nhiều công sức để thế giới chấp nhận đồng NDT là đồng tiền dự trữ quốc tế có giá trị. Hiện tại tỷ lệ giao dịch bằng đồng NDT vẫn hết sức khiêm tốn - ở mức 2,2% tổng lượng giao dịch quốc tế, so với tỷ lệ 45% của USD hay 28% của euro. Kết luận này xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan liên quan trực tiếp tới quy mô và cơ cấu nền kinh tế Trung Quốc.
Từ nhiều năm qua, một số quốc gia đã nêu vấn đề về vị trí quá lớn của bạc xanh (USD) trong hệ thống tài chính được thiết lập từ 70 năm trước, đấy là quan điểm của các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga hayBrazil. Tâm lý đó của các nước đi sau để theo kịp và vượt qua các nước công nghiệp hóa với ảo tưởng là mình đã đủ mạnh để phát huy ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi là hoàn toàn dễ hiểu. Tuy nhiên, các nước cần thừa nhận một thực tế là để đồng USD có được vị thế như ngày nay, kinh tế Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và lâu dài. Mỹ từng có nền kinh tế dẫn đầu thế giới từ năm 1870, nhưng khi đó thế giới vẫn dùng đồng Bảng Anh, đồng Franc Pháp và đồng Mark của Đức làm ngoại tệ chính để thanh toán các giao dịch. Phải 50 năm sau, đồng USD mới thay thế dần các ngoại tệ kia của châu Âu và thống trị từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Cho nên, sức mạnh kinh tế không đồng nghĩa với đồng nội tệ trở thành ngoại tệ thông dụng nhất.
Bản thân nền kinh tế Trung Quốc quá phụ thuộc vào xuất khẩu. Khi đồng NDT trở thành phương tiện dự trữ, có nghĩa là giá trị đồng tiền tăng lên, kéo theo giá hàng hóa của Trung Quốc tăng mạnh và gây khó khăn về cạnh tranh trên thị trường. Bản thân Bắc Kinh đang áp dụng các chính sách kiềm chế đồng nội tệ, không dám thả nổi trên thị trường tự do. Thực tế này khiến quốc tế hoài nghi về giá trị dự trữ của đồng NDT.
Người đại biểu nhân dân