Mang tiếng là một trong những “đại gia” lớn trong lĩnh vực năng lượng, lại có quyền kinh doanh buôn bán độc quyền, nhưng ngành điện lực xếp hàng đi vay tiền ở ngân hàng không đơn giản. Tại một cuộc hội thảo diễn ra ở Hà Nội, ông Cát Dương Quang - Vụ Tín dụng NHNN cho rằng, có 4 nguyên nhân khiến “nhà băng” không mặn mà với việc cấp tín dụng cho ngành điện: Thứ nhất, vốn đầu tư cho các dự án điện rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên tính hấp dẫn chưa cao; ngành điện lại chưa thu hút được nhiều vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thứ hai, mặc dù Chính phủ đã có nhiều cải cách về chính sách giá điện trong thời gian qua nhưng chính sách giá điện hiện nay chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vào ngành điện. Mặt khác, tỷ suất lợi nhuận thấp dẫn đến khả năng trả nợ gốc và lãi không cao, hoặc tổ chức tín dụng phải cho vay với thời gian quá dài, tiềm ẩn rủi ro. Thứ ba, việc cho vay đối với các dự án điện, đặc biệt là thủy điện vừa và nhỏ trong những năm gần đây đã bộc lộ nhiều rủi ro, khó khăn, gây tổn thất cho các tổ chức tín dụng.Thứ tư, một số dự án điện có yêu cầu công nghệ, kỹ thuật phức tạp vượt quá khả năng thẩm định của các tổ chức tín dụng như: dự án điện hạt nhân, điện mặt trời cũng rất khó tìm được nguồn vốn vay.
|
Một đại diện của Ngân hàng Công thương Việt Nam - VietinBank cho rằng, năng lực nhà thầu thi công hạn chế, chủ đầu tư chưa có nhiều kinh nghiệm về đầu tư dự án điện cũng là những nguyên nhân khiến ngân hàng e ngại khi cho ngành điện vay tiền. Đó là chưa kể thủ tục liên quan đến đầu tư xây dựng dự án điện rất nhiêu khê, tài sản bảo đảm của ngành điện rất đặc thù, hầu như không có giao dịch mua bán trên thị trường. Một khó khăn nữa là mức cấp tín dụng. Mức giới hạn tín dụng quy định theo Luật Các tổ chức tín dụng đối với 1 khách hàng là 15% vốn tự có và khách hàng, người có liên quan là 25% vốn tự có. Vốn tự có của VietinBank tính đến thời điểm hiện tại là hơn 50.000 tỷ đồng, lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng ViệtNamhiện nay. Với mức vốn đó, mức cấp tín dụng tối đa đối với 1 khách hàng của VietinBank là hơn 7.500 tỷ đồng và mức cấp tín dụng tối đa đối với khách hàng và người có liên quan là 12.500 tỷ đồng. Hiện nhu cầu vốn của EVN và các đơn vị thành viên là rất lớn nhưng bất cứ nhu cầu vốn nào phát sinh tăng hoặc phát sinh đối với khách hàng mới, dù chỉ là 1 đồng, VietinBank đều phải trình Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công thương, trong những năm gần đây, EVN gặp nhiều khó khăn về tài chính, nguồn vốn tự có tích lũy từ lợi nhuận bị hạn chế. Để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển ngành điện phải nhìn vào giải pháp tăng giá điện và vay vốn. Tuy nhiên, tính khả thi của tăng doanh thu trên cơ sở tăng giá điện sẽ gặp khó khăn vì sức chịu đựng của các doanh nghiệp, người dân đều có hạn và tăng giá điện làm tăng nguy cơ lạm phát. Trong khi đó, giải pháp vay vốn nước ngoài rất khó khăn nhất là trước thực trạng số dư nợ của EVN đã khá lớn. Ngoài ra, các khoản nợ của EVN tại các ngân hàng trong nước cũng đáng kể. Chỉ tính hai dự án Thủy điện Lai Châu và Thủy điện Sơn La, số vốn mà ngành điện đã được ngân hàng huy động cho vay đã lên tới 32 nghìn tỷ đồng.
Vậy mà theo quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2011 - 2020, dự kiến năm 2020 nhu cầu vay vốn đầu tư của ngành điện lên tới 929 nghìn tỷ đồng, tương đương 49 tỷ USD. Tính bình quân mỗi năm ngành điện cần khoảng 4,9 tỷ USD. Cần vốn lớn là vậy nhưng EVN chỉ thu xếp được vốn tự có là 20-30%, còn lại phải tính đi vay. Nhưng vay ở đâu và vay như thế nào không phải là bài toán dễ có lời giải.
Giải pháp tháo gỡ
Khó khăn là vậy nhưng không có nghĩa là ngành điện không tìm được biện pháp tháo gỡ. Theo ông Cát Dương Quang, có ba giải pháp chính:Thứ nhất, Bộ Công thương thực hiện rà soát, đánh giá lại quy hoạch điện, cân đối tiến độ đầu tư của dự án bảo đảm an toàn với môi trường xã hội, đời sống nhân dân, phù hợp với năng lực tài chính và khả năng triển khai của doanh nghiệp rồi thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, việc lựa chọn chủ đầu tư phải được đánh giá một cách kỹ lưỡng, chỉ giao các dự án điện cho các chủ đầu tư thực sự có năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư xây dựng quản lý trong lĩnh vực điện năng. Các chủ đầu tư cần nỗ lực hơn trong việc nâng cao năng lực tài chính, xây dựng phương án đầu tư phù hợp với năng lực công nghệ và nhân lực để tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng. Thứ ba, các bộ, cơ quan có liên quan hỗ trợ trong việc đẩy nhanh thủ tục về đất đai, cấp giấy chứng nhận đầu tư, cấp bảo lãnh Chính phủ theo quy định để bảo đảm tiến độ các dự án điện, thu hút các ngân hàng thương mại cho vay đối với các dự án điện.
Một giải pháp đóng vai trò quan trọng, được xem là một nhân tố nhằm thu hút vốn đầu tư dự án điện đó là tái cơ cấu lại EVN. Thực hiện Nghị quyết TƯ3 Khóa XI về tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1782/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu EVN giai đoạn 2012-2015”. Mục đích của đề án tái cơ cấu nhằm bảo đảm EVN có cơ cấu hợp lý tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, xóa bỏ độc quyền nhằm góp phần bảo đảm cung ứng điện cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tái cơ cấu cũng để tạo sân chơi bình đẳng nhằm thu hút đầu tư dự án điện và phát triển thị trường điện cạnh tranh. Tuy nhiên, điều đáng nói là tiến trình tái cơ cấu, cổ phần hóa đang diễn ra rất chậm chạp.
Có thể nói, “cầu” ngành điện luôn vượt quá “cung” trong khi mức độ cạnh tranh còn yếu, đang là cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp đầu tư dự án điện. ViệtNamcòn nhiều dư địa để tạo nên một sân chơi đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư nhất là lĩnh vực thủy điện, điện năng lượng tái tạo…. Vấn đề là Nhà nước cần tạo một “sân chơi” bình đẳng cũng như đề ra những “luật chơi” phù hợp với nền kinh tế thị trường. Khi đã mạnh mẽ cổ phần hóa, khi nhiều thành phần kinh tế được quyền đầu tư, kinh doanh ngành điện và khi Nhà nước không can thiệp sâu vào ngành điện, khi ấy bài toán khát vốn của điện lực phần nào có lời giải
Từ 2011-2020: EVN được giao đầu tư và đưa vào vận hành 61 tổ máy thuộc 28 dự án nguồn điện với tổng công suất 19.164 MW. Cụ thể, từ 2011-2015 đưa vào vận hành 34 tổ máy thuộc 16 dự án nguồn điện, với tổng công suất 9.738 MW; 2016-2020 đưa vào vận hành 27 tổ máy thuộc 13 dự án nguồn điện, với tổng công suất 9.426 MW, dự kiến hoàn thành đưa vào vận hành thêm 4.920MW công suất các nhà máy điện.
Đại biểu nhân dân