460
+ aa -

Kinh tế - Khoa học - Công nghệ

Cập nhật lúc : 04/03/2019 14:03
Chữa bệnh thời 4.0
Mới đây, các bác sĩ BV Việt Đức vừa ứng dụng thành công kỹ thuật mới trong phẫu thuật lồng ngực cho bệnh nhân. Đây là lần đầu tiên những ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới được áp dụng trong chữa bệnh được thực hiện tại Việt Nam.

Gây mê không đặt nội khí quản 

Đó là kỹ thuật gây mê không đặt nội khí quản (tức là không cần thở máy) trong phẫu thuật cắt phổi. Được biết, bệnh nhân là một cụ bà 71 tuổi, mắc bệnh u phổi giai đoạn sớm (nốt phổi). Các bác sĩ đã tiến hành thực hiện ca phẫu thuật nội soi khối u cho bệnh nhân bằng kỹ thuật gây mê không đặt nôi khí quản. Ngay sau khi mổ 5 phút, bệnh nhân đã tỉnh táo hoàn toàn và có thể nói chuyện được. Những ngày tiếp theo, diễn biến của bệnh nhân rất thuận lợi và đã được xuất viện ngay từ ngày thứ 4 sau mổ. 

U phổi được biết đến là một bệnh có xu hướng gặp ngày càng nhiều ở Việt Nam. Thông thường, phẫu thuật cắt phổi là phương pháp điều trị chủ yếu cho bệnh u phổi. Theo kinh điển, cắt phổi là phẫu thuật lớn, phải gây mê âu bằng ống nội khí quản chọn lọc khá phức tạp, sau mổ nặng nề, chi phí cao. Với những trường hợp mổ khối u nhỏ, kỹ thuật cắt phổi không quá phức tạp với mức dộ xâm lấn ít (phẫu thuật nội soi lồng ngực), thì có thể không cần đến kỹ thuật gây mê này. Phẫu thuật nội soi lồng ngực qua một lỗ mở ngực nhỏ duy nhất cũng là một kỹ thuật xâm lấn mới, được ứng dụng ở một số bệnh viện lớn trong thời gian gần đây. 

Gây mê không đặt ống nội khí quản trong phẫu thuật lồng ngực là kỹ thuật mới được áp dụng ở một số trung tâm lớn trên thế giới, trong đó đi đầu là BV Đại học Quốc gia Đài Loan, song hành cùng với các kỹ thuật mổ ít xâm lấn (nội soi, nội soi 1 lỗ) – tức là các kỹ thuật mổ ít gây đau đớn và sang chấn cho bệnh nhân. Ưu thế chính của kỹ thuật này đó là giảm chi phí điều trị, giảm thời gian nằm viện, hạn chế các biến chứng do gây mê và thông khí một phổi.

Cùng với đó, vừa qua tại BV K và một số bệnh viện đã triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong điều trị ung thư và bước đầu đã thu về được những kết quả hết sức khả quan. Trong tương lai sẽ triển khai trên diện rộng, mở ra hy vọng lớn cho người bệnh. Ngoài ra, nhiều bệnh viện còn mua và sử dụng các phần mềm ứng dụng hiện đại liên tục tích hợp các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân với thông số trên máy theo dõi người bệnh và kết quả xét nghiệm, ngay lập tức sẽ đề xuất can thiệp và bắt đầu điều trị, sau đó theo dõi hiệu quả của quá trình điều trị tương tự như cơ chế hoạt động của máy bay không người lái.

Đẩy mạnh áp dụng công nghệ 

Theo BS Trần Bá Thoại- Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nội tiết Việt Nam, trong thời đại công nghệ 4.0, các chatbot, robot nghe, nhìn, trao đổi thính giác hoặc văn bản sẽ là những trợ lý đắc lực cho các thầy thuốc, chuyên gia y tế giải quyết nhanh, chính xác các vấn đề y tế như chẩn đoán, điều trị, quản lý sức khoẻ,… Thầy thuốc đôi lúc có thể không cần phải dùng hết 4 thủ pháp thăm khám cổ điển là nhìn, sờ, gõ, nghe mà đã có các công nghệ hiện đại hỗ trợ.

Theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê- Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) xác định trong thời tương lai, ngành Y tế Việt Nam sẽ tiếp tục thay đổi tích cực nhờ vào những tiến bộ công nghệ, giúp bác sĩ gần hơn với người bệnh, khả năng khám bệnh của bác sĩ cũng được nâng lên.

Bộ Y tế đã đặt ra các Đề án điện tử như đầu tư xây dựng cơ sở hạn tầng với một trung tâm phân tích dữ liệu y tế, xây dựng trung tâm thống kê điện tử, số hoá bệnh án điện tử, hiện đại hoá thủ tục hành chính… nhằm nâng cao chất lượng phòng bệnh, khám chữa bệnh và cải cách quản trị hành chính y tế.

Song, nhiều chuyên gia cho biết, việc triển khai các đề án vẫn cong gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh các bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải, mỗi bác sĩ khám từ 70 – 100 bệnh nhân/ngày, với 8 giờ làm việc liên tục. Lượng thời gian dành cho bệnh nhân ít nên việc thu thập dữ liệu về tình trạng của bệnh nhân còn hạn chế.

Thực tế cho thấy, khoa học công nghệ phát triển với thời đại công nghệ 4.0 vừa là thách thức cũng vừa là động lực đối với đội ngũ các y, bác sĩ. Dù khoa học công nghệ có phát triển tới đâu thì đó cũng chỉ là máy móc, là các công cụ, phương tiện hỗ trợ không thể thay thế được cho con người.

Đặc biệt là về vấn đề tâm lý tiếp xúc và chẩn đoán bệnh thông qua kinh nghiệm và khả năng tư duy của một bác sĩ. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong lĩnh vực y tế hiện nay vẫn còn yếu và thiếu.

Trong khi Việt Nam hiện vẫn chưa có ngành đào tạo công nghệ thông tin về y tế, muốn học ngành này, phải ra nước ngoài với chi phí không nhỏ. Không chỉ vậy, dữ liệu khám, chữa bệnh còn yêu cầu tính bảo mật cao, quyền riêng tư rất có khả năng bị rò rỉ; tiêu chí về thiết bị và kết nối sẽ chia sẻ như thế nào khi ứng dụng công nghệ thông tin vào khám, chữa bệnh hiện vẫn đang là một bài toán khó đối với ngành y tế và cần thời gian để giải quyết triệt để. (Đaidoanket)