
Hiện nay, đa số Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND các tỉnh, thành, cán bộ, công chức hưởng lương và các chế độ khác từ ngân sách địa phương; công tác bình xét, đánh giá cán bộ công chức, thi đua khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm đều do địa phương. Vì vậy mà trên thực tế công tác phục vụ của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND đối với hoạt động của Đoàn ĐBQH và hoạt động của HĐND có sự “nặng, nhẹ khác nhau”… ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả hoạt động của Đoàn ĐBQH và ĐBQH.
Mặc dù chung một Văn phòng nhưng lại tham mưu, phục vụ hai đối tượng khác nhau với hai chủ thể chỉ đạo khác nhau, là Lãnh đạo Đoàn ĐBQH và Thường trực HĐND. Cùng là cơ quan dân cử, mặc dù có một số chức năng, nhiệm vụ tương tự nhau, nhưng thực tế, các hoạt động của hai cơ quan này được tổ chức khác nhau về: Thẩm quyền, nội dung, quy mô, thời gian, không gian… Chưa tính đến việc Văn phòng còn phải tham mưu, phục vụ công tác phối hợp khi các cơ quan của QH, của Chính phủ về địa phương làm việc, dễ mắc lỗi phục vụ các hoạt động khi trùng thời gian, quy mô, phạm vi tổ chức…
Chung một cơ quan, nhưng ở đa số các tỉnh, thành, hai mảng công việc của Đoàn ĐBQH và HĐND vẫn tách biệt, nếu không nói là độc lập. Thường trực HĐND có quyền điều hòa, phối hợp giữa các ban HĐND và Văn phòng, nhưng Lãnh đạo Đoàn thì lại không thể làm được việc đó. Văn phòng lại phải làm nhiệm vụ Thông tin, báo cáo để điều hòa, phối hợp. Địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH đã được quy định trong luật, Đoàn có con dấu riêng, tài khoản riêng, nguồn kinh phí hoạt động từ QH. Nói là Văn phòng chung nhưng nhiều tỉnh, thành, Chánh văn phòng không được ủy quyền chủ tài khoản của Đoàn ĐBQH. Việc quản lý cơ sở vật chất chi tiêu do hai nguồn khác nhau nên khó điều hành, cân đối các nhu cầu phục vụ…
Một thực tế nữa tại các tỉnh, thành phố đã hợp nhất hai cơ quan Văn phòng là: Khi tổ chức giao ban tháng, tuần, sơ kết 6 tháng, một năm, chuẩn bị báo cáo Văn phòng luôn phải lưu ý đến hài hòa cân đối hoạt động của Đoàn, của HĐND, của Thường trực HĐND và các ban HĐND. Người chủ trì điều hành những cuộc họp đó thật khó, chỉ đạo điều hành đến đâu, thông tin đến đâu, kết luận thế nào… Hầu hết các tỉnh, thành phố, các cuộc giao ban, sơ kết, tổng kết cơ quan chung, người chủ trì điều hành là Chủ tịch HĐND, nếu vắng thì ủy quyền cho Phó chủ tịch HĐND. Ít khi Lãnh đạo Đoàn ĐBQH chuyên trách, được chủ trì, trừ trường hợp Trưởng Đoàn kiêm Chủ tịch HĐND. Vì vậy, tại cuộc giao ban chung thường không đánh giá và triển khai kỹ công việc nên lại phải có cuộc giao ban, hội ý ngay sau đó giữa Lãnh đạo Đoàn ĐBQH và Văn phòng.
Danh nghĩa là chung cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, nhưng hiện tại ở thành phố Hà Nội cũng như nhiều Văn phòng khác rất lúng túng khi xây dựng các Quy chế của cơ quan: Xác định ai là thủ trưởng Cơ quan Văn phòng? Xác định mối quan hệ giữa Thường trực HĐND và lãnh đạo Đoàn thế nào? Giữa Lãnh đạo Đoàn và Lãnh đạo các ban HĐND? Lãnh đạo Đoàn và Thường trực HĐND đều có nhiệm vụ chỉ đạo điều hành Văn phòng để thực hiện nhiệm vụ chung; đây cũng là việc rất khó để tránh chồng chéo và gây khó cho Văn phòng. Về quy trình tiếp nhận, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ công chức Văn phòng phải xin ý kiến những ai? Đây cũng là vướng mắc lớn. Có một thực tế là Lãnh đạo Văn phòng muốn chuyển một chuyên viên từ phòng chuyên môn này sang phòng chuyên môn khác, rất vất vả về quy trình. Đối với việc quản lý, sử dụng kinh phí và tài sản công từ các nguồn, Văn phòng cũng phải xin ý kiến để tạo sự thống nhất, hài hòa… Về đánh giá bình xét thi đua khen thưởng thiếu thống nhất, có nơi Lãnh đạo Đoàn ĐBQH chuyên trách do biên chế, tổ chức, chế độ hưởng từ VPQH nên không được đưa vào bình xét; nhưng cũng có nơi lại bình xét. Nhiều địa phương, bộ phận giúp việc cho Đoàn muốn được xét thưởng phải được sự thống nhất đánh giá của Lãnh đạo Đoàn và Hội đồng TĐKT cơ quan…
Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật triển khai thi hành Hiến pháp 2013, mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan dân cử được bổ sung nhiều, rõ thẩm quyền và trách nhiệm thực tế; số đại biểu chuyên trách tăng, quy mô, phạm vi hoạt động lớn hơn… Yêu cầu, đòi hỏi công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng càng phải nâng cao, chuyên sâu hơn. Đặc biệt, địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm của VPQH cũng lớn hơn, nhất là việc tham mưu, phục vụ QH nói chung và chỉ đạo hướng dẫn các Văn phòng địa phương tham mưu, phục vụ các hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Vì vậy, mối quan hệ giữa VPQH và Văn phòng tại các địa phương phải có sự thay đổi.
Những yêu cầu đặt ra
Việc tách và thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH đã có cơ sở pháp lý, là yêu cầu tất yếu và sẽ khắc phục được các bất cập nêu trên. Vậy mô hình Văn phòng Đoàn ĐBQH tới đây thế nào khi mà yêu cầu của UBTVQH là từ ngày 1.1.2016, hệ thống cơ quan Văn phòng của QH sẽ phải hoạt động theo mô hình mới, công tác tham mưu phục vụ phải tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới, tăng cường hoạt động của QH, của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Thiết nghĩ, mô hình Văn phòng Đoàn ĐBQH cần đáp ứng các yêu cầu tiêu chí sau:
Trước hết, phải rõ địa vị pháp lý, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trụ sở, kinh phí hoạt động để khắc phục bất cập trong quản lý, điều hành hoạt động của Văn phòng như hiện nay. Phải làm rõ Văn phòng Đoàn ĐBQH sẽ ở đâu trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và ở địa phương nói riêng? Văn phòng Đoàn ĐBQH trực thuộc cơ quan nào? Ai quyết định thành lập và bổ nhiệm lãnh đạo? Nên chăng, quy định Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố là một bộ phận thuộc cơ quan VPQH để thuận lợi cho công tác quản lý, điều hành. Văn phòng Đoàn ĐBQH là cơ quan tương đương cấp sở, ngành ở địa phương, cấp vụ thuộc các cơ quan Trung ương. Thẩm quyền quyết định thành lập Văn phòng, bổ nhiệm lãnh đạo Văn phòng trao cho Chủ nhiệm VPQH (lẽ tất nhiên cần sự thống nhất của Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố).
Về biên chế số lượng cán bộ, công chức, tổ chức cơ quan Văn phòng phải phù hợp với từng Đoàn ĐBQH, theo số lượng ĐBQH, đặc thù vùng miền. Nên quy định tối thiểu mỗi Văn phòng có Chánh văn phòng, một Phó chánh Văn phòng; 2 phòng: Phòng Nghiệp vụ tổng hợp; Phòng Hành chính, tổ chức, quản trị. Số lượng cán bộ, công chức, nhân viên hợp đồng (lái xe, bảo vệ) từ 12 đến 15 người. Với các Đoàn ĐBQH có từ trên 20 ĐBQH, hoặc chỉ trên 15 đại biểu nhưng địa bàn rộng, dân số đông… mô hình Văn phòng có: Chánh Văn phòng, 2 Phó chánh văn phòng; 3 phòng: Phòng Tổng hợp, Phòng Thông tin và Dân nguyện, Phòng Hành chính, tổ chức quản trị. Số lượng cán bộ, công chức, nhân viên hợp đồng (lái xe, bảo vệ) từ 18 - 20 người.
Đoàn ĐBQH dù không phải là cấp trên của Văn phòng, nhưng phải quy định rõ mối quan hệ giữa Văn phòng Đoàn ĐBQH với Lãnh đạo Đoàn ĐBQH; việc phân quyền và trách nhiệm giữa Lãnh đạo Đoàn ĐBQH và Chủ nhiệm VPQH với Văn phòng Đoàn ĐBQH. Đặc biệt là quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Lãnh đạo Đoàn ĐBQH với Văn phòng. Trên cơ sở nhiệm vụ chung của Văn phòng, cần quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ trách nhiệm của Lãnh đạo Văn phòng; nhiệm vụ của các phòng thuộc Văn phòng. Mối quan hệ của Văn phòng với các cơ quan của QH và các cơ quan của địa phương. Quy định rõ công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, phân cấp, phân quyền của VPQH đối với Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố.
Để thi hành Hiến pháp 2013, QH đã ban hành Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa phương (thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Trong đó, có những quy định liên quan đến bộ máy giúp việc của Đoàn ĐBQH và HĐND. Đối với Đoàn ĐBQH tại địa phương, Khoản 4, Điều 43 Luật Tổ chức QH (sửa đổi) quy định: Đoàn ĐBQH có trụ sở làm việc. Văn phòng Đoàn ĐBQH là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ cho hoạt động của các ĐBQH, Đoàn ĐBQH ở địa phương. Kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH do ngân sách nhà nước bảo đảm. Về bộ máy giúp việc của HĐND, Khoản 1, Điều 127, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định: Văn phòng HĐND cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của HĐND, Thường trực, ban và đại biểu HĐND. Như vậy, hai Luật này đã khẳng định rõ tên gọi của hai cơ quan Văn phòng.
Việc tách Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố là quyết định đúng đắn. Đây là nội dung mới trong quá trình bổ sung hoàn thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan thuộc QH, HĐND nói riêng, đáp ứng yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của QH, HĐND. UBTVQH cần xin ý kiến các ĐBQH; đồng thời có sự thống nhất với Chính phủ để hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ về tách Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố; về biên chế tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước nói chung, trong đó có biên chế tổ chức cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH ở tỉnh, thành phố...
Người đại biểu nhân dân