Sau Chiến thắng Buôn Ma Thuột, thế của quân ta như chẻ tre, chúng tôi ai cũng biết ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam tất yếu phải đến và đang đến rất gần
- Những ngày này, cả nước đang kỷ niệm sự kiện lịch sử trọng đại: 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Là một trong những người trực tiếp tham gia vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, chắc hẳn thời khắc lịch sử hào hùng của ngày 30.4.1975 vẫn còn nguyên vẹn, thưa nguyên Chủ nhiệm?
- Tôi không chỉ là người chứng kiến thời khắc lịch sử ngày 30.4.1975 mà có thể nói làngười trong cuộc. Tuy lúc đó không ở thành phố Sài Gòn, nơi đầu não của Mỹ - Ngụy ở miền Nam, nhưng tôi đang làm nhiệm vụ ở tỉnh lân cận Sài Gòn, trung tâm của vùng 4 chiến thuật, có Đường 4, nay là Quốc lộ 1, xuyên suốt tới tận Cà Mau. Đó là Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang, một phần cơ thể của miền Nam giải phóng cùng lúc với Sài Gòn. 40 năm trôi qua, vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng, những con người ngày ấy nay đã già đi theo năm tháng, nhưng tôi tin cảm xúc của những người từng được chứng kiến thời khắc lịch sử hào hùng ấy của dân tộc vẫn vẹn nguyên và đong đầy.
Ngày 30.4.1975 là mốc son của lịch sử dân tộc. Tôi nghĩ, là người Việt Nam, chung dòng máu, chung lịch sử thì không ai có thể quên được cảm xúc của ngày ấy: miềnNamđược hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Điều rất đáng nhớ lúc ấy là khi chiến tranh kết thúc thì đương nhiên phải có bên thắng - bên thua, nhưng dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ta - Đảng Cộng sản ViệtNam- thì chiến thắng ngày 30.4.1975 là thắng lợi chung của cả dân tộc, là thành quả của tất cả nhân dân ViệtNam. Mỗi tấc đất của Tổ quốc thiêng liêng ta giành được đều thấm máu của đồng bào, chiến sĩ, nhân dân ViệtNam. Khi ấy, chiến thắng 30.4.1975 còn là chiến công vĩ đại của dân tộc ViệtNamdâng lên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Từ đó đến nay, chúng ta tiếp tục thực hiện Di chúc của Người: đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Khi nghe qua đài phát thanh lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh, cảm xúc của tôi lúc đó rất khó tả, không bất ngờ nhưng cũng chưa mường tượng ngay được rằng miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng. Bởi lúc đó, tôi là Thành ủy viên Thành ủy Mỹ Tho, Phó bí thư Thành đoàn Mỹ Tho, Bí thư Ban cán sự Đảng của Đoàn thanh niên, được Thành ủy Mỹ Tho phân công chịu trách nhiệm một mũi tấn công với nhiệm vụ bảo vệ an toàn cây cầu, bảo đảm giao thông không bị đứt gãy, để đại quân ta tiếp tục tiến vào giải phóng Sài Gòn. Hơn cả niềm vui chộn rộn của một người dân khi đất nước hoàn toàn giải phóng, khi ấy, chúng tôi phải lo chạy đi để lấy tất cả những vật dụng, phương tiện đã chuẩn bị cho ngày đại thắng. Đó là cờ, băng rôn, khẩu hiệu… để căng trong thành phố, thông báo cho đồng bào ta biết là Sài Gòn đã được giải phóng. Chúng tôi cũng phải chạy đi để mượn loa, trèo lên nóc nhà kêu gọi Mỹ - Ngụy đầu hàng ở những nơi còn bị chiếm đóng. Lúc đó, không ai chỉ đạo, nhưng chúng tôi cứ thế tự động làm tất cả những việc như vậy…
- Theo lời kể của nguyên Chủ nhiệm cũng như thế chủ động của ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thì dường như Chiến thắng 30.4.1975 là tất yếu…?
- Ngay từ Chiến thắng Buôn Ma Thuột (10.3.1975), thế của quân ta như chẻ tre, tiến thẳng về miềnNam, thì chúng tôi ai cũng biết ngày giải phóng hoàn toàn miềnNam tất yếu phải đến và đang đến rất gần. Vấn đề thời điểm chính xác là ngày nào mà thôi. Và cuối cùng ngày mà chúng ta không bao giờ có thể quên đã đến: 30.4.1975.
40 năm qua, Quốc hội luôn xứng đáng với mong đợi của cử tri và nhân dân
- 40 năm sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giành nhiều thành tựu to lớn, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Với QH, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân, thì thành quả nổi bật nhất trong chặng đường lịch sử vừa qua là gì, thưa nguyên Chủ nhiệm?
- Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Ngày 6.1.1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra trên quy mô cả nước, bầu ra QH khóa đầu tiên của nước ViệtNam. Tiếp đó, QH đã ban hành Hiến pháp năm 1946.
Với dấu mốc lịch sử 30.4.1975, sau khi giải phóng hoàn toàn miềnNam, thống nhất đất nước, ngày 25.4.1976, cuộc Tổng tuyển cử chung được tổ chức trên cả nước để bầu ra QH chung (QH Khóa VI).
Tại Kỳ họp đầu tiên của nhiệm kỳ Khóa VI, QH quyết định đặt tên nước Việt Nam thống nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thông qua chính sách đối nội, đối ngoại; bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước; quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp; quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Với kết quả của Kỳ họp thứ Nhất này, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, tập trung cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, mở ra khả năng to lớn để phát triển quan hệ với các nước trên thế giới.
QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan giám sát tối cao. Với 3 chức năng cơ bản lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, 40 năm qua với gần 8 nhiệm kỳ, QH đã có nhiều thành tựu nổi bật, đáng ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp. Qua mỗi khóa QH, số lượng luật được QH thông qua hàng năm ngày càng nhiều. Nội dung các đạo luật ngày càng cụ thể, đi sâu vào từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Luật do QH ban hành ngày càng chi tiết, bảo đảm tính khả thi. Có thể nhìn thấy sự tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng các đạo luật do QH ban hành qua từng nhiệm kỳ.
Với hoạt động giám sát, QH đã đạt nhiều bước tiến lớn. Vào thời điểm 40 năm trước, từ nhiệm kỳ Khóa VI, khi ấy QH chỉ họp vỏn vẹn trong 7 ngày và chủ yếu là nghe Chính phủ báo cáo, thường là báo cáo rất dài, sau đó Quốc hội chỉ thảo luận một chút rồi biểu quyết thông qua. Đến nay, hầu hết các báo cáo trình trước QH được rút gọn, dành thời gian để QH tập trung thảo luận, phản biện, cọ xát, sau đó mới đi đến biểu quyết thông qua. Hay như hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, QH chúng ta đi từ chỗ chưa có hoạt động chất vấn đến chỗ có, từ chỗ chất vấn ít đến chất vấn nhiều, từ chỗ hỏi để biết, để lấy thông tin đến bây giờ là tranh luận để làm rõ, đi đến cùng vấn đề đưa ra chất vấn các thành viên Chính phủ.
Với chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia, QH đã đi từ những bước ban đầu là chủ yếu quyết định chung, thông qua báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ, tiến tới ra Nghị quyết về những vấn đề cụ thể. Tôi nhớ đó là tại nhiệm kỳ Khóa X, lần đầu tiên, QH ra 3 Nghị quyết quyết định chủ trương đầu tư 3 dự án quan trọng quốc gia: Nghị quyết 06/1997 về công trình quan trọng quốc gia Khí - Điện - Đạm tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghị quyết 07/1997 về dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất; Nghị quyết 08/1997 về dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng.
Về vai trò cơ quan đại biểu đại diện cao nhất của nhân dân, thì QH đã đi từ chỗ cử tri ít quan tâm đến quan tâm và hiện là rất quan tâm đến hoạt động của QH. Thậm chí có cử tri nói rằng QH họp bao nhiêu ngày thì tôi cũng họp bấy nhiêu ngày. Hay đối với hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, có cử tri nói với tôi là trông ngày trông đêm đến phiên chất vấn,đặng nghe cho đã… Đây rõ ràng là thành quả, dấu ấn nổi bật của QH đóng góp vào thành tựu chung của đất nước ta.
- Nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, nhìn lại những thành quả đã qua để vững bước tiến vào tương lai. Để hoạt động của QH ngày càng đi vào thực chất, xứng đáng với sự mong đợi ngày càng cao của cử tri và nhân dân, nguyên Chủ nhiệm có đề xuất gì về cải tiến, đổi mới hoạt động của QH?
- Nếu hỏi rằng: QH đã xứng đáng với mong đợi của cử tri và nhân dân hay chưa, thì câu trả lời chắc chắn là: Có! Nhưng chưa đủ. Nghĩa là chúng ta chưa thể bằng lòng với những gì QH đã đạt được. Bởi cuộc sống luôn vận động không ngừng. Yêu cầu của cử tri, của nhân dân, đòi hỏi của cuộc sống ngày càng cao.
Vừa qua, trong công tác lập pháp, QH đã đạt nhiều thành tựu, lập những kỷ lục mới về số lượng các đạo luật thông qua trong một kỳ họp, một nhiệm kỳ QH, chất lượng luật cũng ngày càng được nâng cao. Nhưng vẫn còn một số điều luật, đạo luật chưa thực sự đi vào cuộc sống như mong muốn. Có một số luật còn làm theo ý muốn của cơ quan quản lý nhà nước, chứ chưa hoàn toàn là ý nguyện của nhân dân, chưa phải là cái nhân dân đang cần để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Chúng ta đã và đang làm tốt việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nhưng ngược trở lại là việc khái quát thực tiễn cuộc sống của nhân dân thành luật pháp như thế nào? Đây là điều nhân dân đang còn mong mỏi, chờ đợi ở QH. Hay với hoạt động giám sát, hiện QH đang thảo luận về dự án Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND, chuẩn bị xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ Chín tới. Đã giám thì phải sát. Nếu giám sát chỉ là xuống địa phương, cơ sở nghe báo cáo thì giữa việc nghe báo cáo với thực tế cuộc sống như thế nào? Có khoảng cách gì không? Và quan trọng hơn là giám sát xong rồi thì hiệu quả ra sao? Đây là những vấn đề cần nghiêm túc xem xét trong quá trình sửa Luật Hoạt động giám sát của QH.
Rõ ràng, để thực sự xứng đáng với sự tin cậy của cử tri và nhân dân, QH phải tiếp tục đổi mới. Đổi mới hoạt động lập pháp để phản ánh kịp thời hơn, chính xác hơn hơi thở của cuộc sống, của nhân dân. Không bàn về từng luật cụ thể, nhưng thực tế cho thấy đây đó cử tri còn có băn khoăn về tính khả thi của một số đạo luật do QH ban hành. Vừa qua, chúng ta đã làm tốt việc cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, đưa luật pháp vào cuộc sống, nhưng ngược lại cuộc sống cũng phải được đi vào luật pháp. Không nên chỉ đi một chiều xuôi, đưa pháp luật vào cuộc sống mà QH phải đi cả hai chiều.
Đảng đưa ra chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Đây là trọng trách không ai thay thế được. Muốn xứng đáng với vai trò, vị thế như vậy thì đòi hỏi tiêu chuẩn cao từ mỗi ĐBQH. Để đạt 5 tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì có lẽ không chỉ có 500 ĐBQH mà có thể là hàng triệu người đạt được. Nhưng không phải ai đạt đủ 5 tiêu chuẩn đó cũng thành ĐBQH. 500 ĐBQH là những người nhất của nhất và phải xứng đáng là nhất của nhất. Cho nên, QH, ĐBQH phải tự đổi mới mình để càng ngày càng xứng đáng hơn với sự tin cậy của Đảng, với lòng tin của cử tri và nhân dân. Theo Hiến pháp và pháp luật, hiện nay, nhân dân bầu trực tiếp đến ĐBQH và ủy quyền cho ĐBQH bầu và phê chuẩn các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước. Vậy thì, từng ĐBQH phải thật sự xứng đáng với sự tín nhiệm, tin tưởng của cử tri và nhân dân.
40 năm qua, QH đã có những đóng góp thật to lớn trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật của đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhất là những năm gần đây, khi đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng với quốc tế, QH không những đóng góp cho việc hoàn thiện nền pháp chế XHCN mà còn đóng góp vào thành tựu cho nền dân chủ. QH làm tròn nhiệm vụ khi nền dân chủ thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đất nước ta thực sự của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Đương nhiên, nhân dân làm chủ không có nghĩa là mạnh ai nấy làm, mà phải trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Và QH ta là cơ quan lập hiến, lập pháp.
40 năm, với một đời người có thể là dài, nhưng có lẽ chưa thật dài so với lịch sử của một đất nước, dân tộc. Để giải phóng hoàn toàn miềnNam, thống nhất đất nước, giành lại độc lập, tự do cho nhân dân, chúng ta đã tốn bao nhiêu máu xương. Nhưng có lẽ công cuộc bền bỉ và khó khăn hơn là giữ được nền độc lập ấy, giữ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đây là điều thiêng liêng, đồng thời phải giữ được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Mong rằng tất cả người Việt Nam, dù ở trong nước hay nước ngoài, luôn nhớ và giữ mãi niềm tự hào về ngày 30.4.1975 để luôn trân quý giá trị của hòa bình - nền hòa bình được đánh đổi bằng biết bao nhiêu máu xương của đồng bào, chiến sĩ cả nước để giành lại độc lập cho dân tộc. Từng người ViệtNam, không ai được quyền lơ là trong việc gìn giữ hòa bình cho đất nước, độc lập cho dân tộc. Thế hệ đi trước luôn nêu cao tinh thần cách mạng, gương mẫu đi đầu và có lòng tin vào thế hệ trẻ. Có như vậy, chắc chắn chúng ta đã, đang và sẽ gìn giữ được nền hòa bình lâu dài để xây dựng và phát triển đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Xin cám ơn nguyên Chủ nhiệm!
Người đại biểu nhân dân