
Chọn phương án tối ưu
Trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi), UBTVQH đã chọn 7 nội dung lớn để báo cáo trước QH. Đó là trách nhiệm hình sự của pháp nhân; phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù trong trường hợp người bị kết án không chấp hành án; hạn chế án tử hình… Tuy nhiên, thảo luận tại hội trường về Dự thảo Bộ luật này, các ĐBQH đã phản ánh những vướng mắc trong thực tiễn thực thi pháp luật hình sự hiện hành. Đây là cơ sở để cơ quan soạn thảo chọn lọc, tiếp thu, tìm ra phương án tối ưu nhất trong số các phương án đưa ra nhằm hạn chế tối đa các sai sót không đáng có trong quá trình làm luật của QH.
Có giảm hình phạt tử hình hay không và nếu giảm thì nên giảm với tội danh nào là chủ đề tranh luận sôi nổi giữa các ĐBQH trong lần cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9. Trong đó, nhiều ĐBQH cho rằng, việc loại bỏ hình phạt tử hình với tội tàng trữ trái phép và vận chuyển chất ma túy (Điều 249) sẽ giúp các đối tượng chủ mưu, cầm đầu đường dây kê cao gối nghỉ ngơi, vì rất khó xác định việc có chủ đích thực hiện hay chỉ vô tình tham gia. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH và ý kiến đóng góp của nhân dân, UBTVQH giữ hình phạt tử hình đối với kẻ chủ mưu, cầm đầu đường dây hoặc người thực hiện việc vận chuyển ma túy với số lượng lớn. Đồng tình với quan điểm này, ĐB Nguyễn Trung Thu (Long An) phân tích thêm: biện pháp hình sự và xử phạt thật nghiêm khắc người phạm tội trên thực tế đã không giúp công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiệu quả hơn. Mặt khác, mục đích cao nhất của hình phạt là giáo dục, phòng ngừa, chứ không phải là trừng trị, nên không nên quy định theo hướng khốc liệt hóa chính sách. Hình phạt thật nghiêm khắc nhưng nếu không thực hiện được trong thực tiễn sẽ không có ý nghĩa - ĐB Nguyễn Trung Thu thẳng thắn.
Có nên luật hóa khi chưa có cơ sở lý luận chắc chắn?
Có quy định trách nhiệm hình sự với pháp nhân là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi QH cho ý kiến lần đầu vào Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi). Có đại biểu thậm chí đã gay gắt khi chỉ ra thực tế rằng, trong khi các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất được quan điểm về việc có quy định trách nhiệm hình sự với pháp nhân không thì sinh viên ngành luật lại được dạy là cá thể hóa trách nhiệm hình sự (?). Thực tế, việc đưa ra trách nhiệm hình sự với pháp nhân trong lần sửa đổi Bộ luật Hình sự này cũng là thay đổi quan điểm về thể nhân phạm tội đã được nhất quán mấy chục năm qua trên một cơ sở tư tưởng chính trị rất rõ ràng. Thực tế cũng cho thấy, hệ thống pháp luật hành chính, dân sự đều có hệ thống chế tài để xử lý trách nhiệm của pháp nhân. Nhưng những quy định này đều chưa phát huy tác dụng trên thực tế, vì các cơ quan nhà nước chức năng về đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự đã không áp dụng kiên quyết, triệt để. Từ thực tiễn này, một số ĐBQH tiếp tục bảo lưu quan điểm: chỉ sửa toàn bộ chính sách hình sự, cụ thể là việc bổ sung trách nhiệm hình sự với pháp nhân, khi đã có cơ sở lý luận vững chắc.
Tuy nhiên, cũng từ góc độ thực tiễn thực thi luật, một số ĐBQH tán thành việc đưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật Hình sự lần này. Đây là một trong các nội dung mang tính đột phá, thể hiện sự đổi mới nhận thức trong sửa đổi Bộ luật Hình sự. Việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào thời điểm này là cần thiết và đúng lúc. Vì rằng hiện nay, tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức tạp, ngày càng nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống yên lành của người dân cũng như gây mất trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới, các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nên thận trọng, cần nghiên cứu thấu đáo và có lộ trình, bước đi phù hợp, tránh gây xáo trộn lớn trong việc tổ chức thi hành chính sách về hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự. Trước mắt nên tập trung vào nhóm tội hiện đang gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sản xuất kinh doanh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng cũng như đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Theo đó, việc giới hạn phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 15 tội danh thuộc nhóm tội phạm về kinh tế, môi trường, tham nhũng, rửa tiền, tài trợ khủng bố như Dự thảo là phù hợp. Với quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để quy định trình tự, thủ tục tố tụng hình sự chặt chẽ đối với pháp nhân, góp phần bảo đảm khách quan, hiệu quả hơn trong xử lý các hành vi vi phạm của pháp nhân so với các chế định, chế tài xử lý hiện hành, tăng cường bảo vệ quyền lợi của người dân khi thực hiện khiếu nại và khởi kiện. Theo ĐB Trần Hồng Hà (Vĩnh Phúc) thì quy định này còn tạo cơ sở pháp lý để xử lý về hình sự với những pháp nhân vì lợi nhuận bất chấp pháp luật của Nhà nước, xem thường tính mạng, sức khỏe của người dân, lũng đoạn thị trường, phá vỡ trật tự quản lý của nền kinh tế. Hoặc để can thiệp vào hoạt động của các nhóm tội phạm có tổ chức tồn tại dưới hình thức hợp pháp là công ty, tập đoàn như các nhóm tội, hoạt động buôn lậu, rửa tiền, buôn bán người, buôn bán trẻ em, ma túy...
ĐBQH thảo luận tại Hội trường
Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trình QH lần này được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999. Việc sửa đổi được tiến hành toàn diện, cơ bản trên cơ sở kế thừa phát triển các quy định pháp luật hình sự hiện hành còn phù hợp, giải quyết một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Các quy định trong Dự thảo Bộ luật có tính khái quát, khả thi, bảo đảm tính minh bạch, có thể xử lý được các loại tội phạm nảy sinh trong tình hình mới. Có nhiều quy định mang tính dự báo và ổn định lâu dài. Dự thảo Bộ luật cũng đã thể hiện rõ tính nhân đạo, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để người kết án tái hòa nhập cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường sống an lành cho người dân, động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, so với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật Hình sự có đặc thù, đây là vũ khí để đấu tranh với các hành vi phạm tội, chứ không đơn thuần là công cụ quản lý của Nhà nước. Do vậy, bất kỳ phương án sửa đổi nào đưa ra đều phải bảo đảm kín kẽ cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, đối với những vấn đề chưa có cơ sở lý luận vững chắc, nhưng thực tiễn đòi hỏi thì cũng cần được cân nhắc thấu đáo, tìm ra hướng xử lý phù hợp. Được vậy, chắc chắn các ĐBQH sẽ yên tâm hơn khi bấm nút thông qua Dự thảo Bộ luật hệ trọng này.
ĐBQH THÂN ĐỨC NAM(Đà Nẵng): Chênh lệch biên độ hình phạt tù trong một khung phạt không nên quá 3 năm
Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) có 330 điều/433 điều quy định về các tội phạm hình sự, với nhiều hình phạt cụ thể. Qua nghiên cứu cho thấy, trong các điều này có 209 điều luật đưa ra mức hình phạt trong cùng một khung, song lại có sự chênh lệch đến 4 năm tù giam. Đặc biệt, 42 tội danh nằm chung một khung hình phạt tù nhưng lại có mức phạt chênh lệch từ 8 đến 10 năm. Ngoài ra, trong trên 200 điều có xác định khung hình phạt cao nhất, thì hành vi có mức độ nguy hiểm thấp hơn lại được áp dụng mức phạt cao hơn so với hành vi có mức độ nguy hiểm cao hơn liền kề. Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện và thiếu thống nhất cho việc áp dụng luật, tiềm ẩn khả năng 2 hành vi phạm tội như nhau, nhưng mức hình phạt sẽ khác nhau, không bảo đảm tính công bằng trong xử lý tội phạm. Sẽ có trường hợp tính chất nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cao hơn nhưng hình phạt áp dụng sẽ nhẹ hơn. Vấn đề này nếu xảy ra trong thực tế sẽ tác động tiêu cực đến khả năng đối chứng và tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, tôi đề nghị, cần tiếp tục rà soát để điều chỉnh các điều khoản này theo hướng thu hẹp biên độ hình phạt tù trong một khung tối đa không quá 3 năm. Hình phạt cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với hành vi có tính chất nguy hiểm thấp hơn chỉ được “bằng” hoặc “thấp hơn” mức thấp nhất của khung hình phạt có tính chất nguy hiểm cao hơn liền kề.
ĐBQH TÔ VĂN TÁM (Kon Tum): Chủ động khắc phục thiệt hại chỉ nên coi là tình tiết giảm nhẹ

Đối với người bị kết án tử hình đối với tội tham nhũng, nhận hối lộ, Dự thảo quy định, không thi hành án tử hình đối với tội phạm này khi sau khi bị kết án đã chủ động “khắc phục cơ bản hậu quả”, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện điều tra xử lý tội phạm (Điểm c, Khoản 3, Điều 40). Người phạm tội đã nhận rõ hành vi sai trái của mình, chủ động tích cực khắc phục hậu quả và tích cực phối hợp với cơ quan chức năng trong quá trình xử lý cần được hưởng sự khoan hồng. Nhưng sự hối cải và sự nhận thức chủ động tích cực khắc phục đó chỉ nên ghi nhận ở giai đoạn “phát hiện tội phạm” và đang trong quá trình xử lý. Sau khi bị tuyên án, sự chủ động tích cực này có lẽ vì quá sợ bị tử hình mà tích cực khắc phục nhằm cứu lấy sự sống của mình. Quy định như vậy có thể khiến người dân hiểu, tội phạm tham nhũng có thể “dùng tiền để thoát án tử hình”, dễ làm gia tăng sự bất bình đối với tình trạng tham nhũng và nhận hối lộ. Mặt khác, người phạm tội có thể sẽ có tư tưởng chờ xem án sẽ tuyên ra sao, nếu tuyên tử hình mới chủ động tích cực khắc phục hậu quả, tích cực phối hợp với cơ quan chức năng để thoát khỏi hình phạt này. Nếu tuyên không là tử hình thì sẽ tìm cách giữ tài sản do tham nhũng hay hối lộ mà có. Bởi vậy, cần đưa các tình tiết chủ động khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác cơ quan điều tra với các cơ quan chức năng trong phát hiện xử lý tội phạm thành các tình tiết giảm nhẹ đặc biệt để áp dụng Khoản 1, Điều 54 của Dự thảo khi lượng hình.
Người đại biểu nhân dân