
Tôi đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung một số nội dung ở Điều 21, Điều 28 và Điều 33 để hoạt động của Mặt trận Tổ quốc có hiệu quả hơn trong thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội. Đây là 2 chức năng mới và rất khó lần này được giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thứ nhất, tại khoản 2, Điều 21 quy định: trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức liên quan tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia góp ý kiến; tiếp thu và phản hồi ý kiến, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật. Tôi đề nghị xem lại cụm từ tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia góp ý kiến. Nếu quy định như dự thảo thì hoàn toàn không có tính bắt buộc, làm cũng được mà không làm cũng được. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả góp ý phản biện về văn bản quy phạm pháp luật của Mặt trận Tổ quốc. Tôi đề nghị, thay cụm từ trên bằng cụm từlấy ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc - khẳng định đây là việc bắt buộc phải làm và các cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật và các tổ chức liên quan khác phải có trách nhiệm lấy ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và tiếp thu, phản hồi về kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc để hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, khoản 3, Điều 33 quy định Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy định tại khoản 1 của Điều này, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quy định như vậy chưa chặt chẽ. Đề nghị xem xét, bổ sung thêm nội dung những chính sách pháp luật đã và đang có hiệu lực pháp luật, đã và đang được thi hành. Như vậy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ có quyền chủ trì phản biện xã hội đối với những dự thảo, văn bản quy định tại khoản 1, Điều 33 mà còn có quyền phản biện xã hội đối với những văn bản, những chính sách pháp luật đang được thi hành nếu văn bản đó, chính sách đó có dấu hiệu trái với quy định của Hiến pháp và pháp luật, hoặc văn bản đó, chính sách đó không còn phù hợp mà có nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân, có liên quan đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
ĐBQH Tô Văn Tám (Kon Tum): Không nên quy định đối tượng giám sát quá rộng
Tôi tán thành giải trình của UBTVQH về việc chưa quy định các nội dung về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp ý kiến xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên, phản biện xã hội đối với dự thảo đường lối, chủ trương chính sách của Đảng trong dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) lần này. Mặc dù đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhưng cần có thời gian kiểm nghiệm trong thực tiễn. Việc chưa quy định nội dung cụ thể Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của Đảng, phản biện xã hội đối với dự thảo đường lối, chính sách của Đảng là phù hợp với thực tiễn hiện nay. Việc ghi nhận quyền tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc được đề cập chung ở khoản 2, Điều 1 là đủ. Mặt khác, nếu quy định như ở khoản 4, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước nhưng nội dung sau đó của Luật chỉ có xây dựng Nhà nước mà không có nội dung xây dựng Đảng thì sẽ không đồng bộ trong luật. Bởi vậy khoản 4, Điều 3 chỉ nên đề cập đến trách nhiệm tham gia xây dựng Nhà nước và gộp với khoản 5 thành một khoản là: tham gia xây dựng Nhà nước, thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
Về tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có cần thiết phải quy định trong Luật về Ban Công tác Mặt trận ở thôn, làng, ấp, bản, phum sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư như ở khoản 3, Điều 6 hay không? Tôi thấy khoản 1, Điều 6 khi quy định cơ cấu tổ chức mặt trận đã nói rõ: Mặt trận Tổ quốc Việt Namđược tổ chức ở Trung ương và các đơn vị hành chính. Đơn vị hành chính của chúng ta hiện nay được quy định trong pháp luật hiện hành cũng như trong dự thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương sẽ được QH thông qua tại Kỳ họp này chỉ đến cấp xã. Nếu quy định Ban Công tác Mặt trận ở cấp thôn như ở khoản 3 thì có phù hợp với khoản 1 hay không? Ban Công tác Mặt trận là cánh tay nối dài của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở như Báo cáo giải trình của UBTVQH. Cũng như đơn vị hành chính cấp thôn, làng, ấp, bản là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở nhưng không được quy định ở trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương mà được quy định ở văn bản dưới luật là thông tư hướng dẫn về tổ chức hoạt động. Bởi vậy, cần xem xét kỹ vấn đề này. Tôi đề nghị, nên quy định trong văn bản liên tịch giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính phủ, văn bản liên tịch này sẽ quyết định cụ thể về tổ chức hoạt động cũng như các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Ban Công tác Mặt trận và như thế, cơ sở pháp lý của Ban Công tác Mặt trận sẽ rõ ràng hơn. Điều đó cũng tương thích với quy định địa vị pháp lý của thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố với chức năng là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở.
Về đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc quy định tại khoản 1, Điều 26 là cơ quan, tổ chức, đơn vị, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức - quy định đối tượng gồm cả các tổ chức, đơn vị liệu có rộng quá không? Bởi tổ chức, đơn vị thì có nhiều loại tổ chức, đơn vị khác nhau như: tổ chức kinh tế, tổ chức quần chúng khác không phải là thành viên của Mặt trận Tổ quốc... Quy định như vậy, Mặt trận Tổ quốc có giám sát được hết không và có cần thiết phải giám sát hết không? Tôi đề nghị, nên quy định rõ các tổ chức, đơn vị Mặt trận cần thiết phải giám sát nhằm bảo đảm góp phần phát triển kinh tế - xã hội chứ không phải là tất cả các tổ chức, đơn vị.
Về hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc, điều này còn phụ thuộc vào việc xem xét, giải quyết các kiến nghị sau giám sát. Nếu các kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc không được xem xét giải quyết hoặc xem xét giải quyết không đến nơi đến chốn thì giám sát của Mặt trận sẽ không còn ý nghĩa. Quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong vấn đề này mới chỉ là theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị của cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền như quy định tại khoản 7, Điều 28 - tôi thấy là chưa đủ. Đề nghị bổ sung thêm:quyền đề nghị xem xét trách nhiệm của cơ quan tổ chức nếu cơ quan này không xem xét giải quyết hoặc xem xét giải quyết không đến nơi đến chốn các kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc.
ĐBQH Trần Hồng Thắm (TP Cần Thơ): Trách nhiệm nhiều nhưng quyền hạn chưa rõ
Dự thảo Luật lần này đã bổ sung, làm rõ hơn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm, hệ thống tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; nhất là đã quy định rõ hơn về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận, bảo đảm phù hợp với quy định của Hiếp pháp và thực tiễn. Tôi tham gia một số nội dung cụ thể như sau:
Về tổ chức của Mặt trận Tổ quốc, tôi cho rằng, dự thảo Luật giao rất nhiều trách nhiệm cho Mặt trận Tổ quốc nhưng quyền hạn và điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc còn nhiều điểm chưa rõ, dễ dẫn đến sự chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính. Do đó, cần quy định cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và điều kiện bảo đảm hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, nhất là trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội để Mặt trận Tổ quốc thực sự là nơi tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thực hiện dân chủ và tăng cường đồng thuận xã hội, góp phần tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Tôi cũng đề nghị tại khoản 4, Điều 8 cần quy định rõ cách thức, điều kiện để nhân dân giám sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc nhằm bảo đảm thực thi quyền dân chủ, là cơ sở thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Về phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân tại khoản 5, Điều 15, tôi đề nghị bổ sung cụm từ Thường trực HĐND cấp tỉnh vào sau cụm từ Đoàn ĐBQH để quy định của luật thống nhất từ Trung ương đến cấp xã.
Về tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách pháp luật tại khoản 4, Điều 17, tôi đề nghị cần làm rõ nội dung tham gia quản lý Nhà nước của Mặt trận Tổ quốc nhằm tránh hành chính hóa hoạt động của Mặt trận Tổ quốc.
Về tham gia xây dựng pháp luật tại khoản 2, Điều 21, tôi cho rằng quy định cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia đóng góp ý kiến là chưa chặt chẽ và khó thực hiện. Do đó, đề nghị thay cụm từ tạo điều kiện bằng cụm từ lấy ý kiến, viết lại khoản này như sau: trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm lấy ý kiến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tiếp thu và phản hồi về kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Về đối tượng, nội dung và phạm vi phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc tại khoản 3, Điều 33, đề nghị bổ sung cụm từ khi cần thiết vào trước cụm từ khi có yêu cầu để khẳng định phản biện xã hội là một trong những chức năng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời, thể hiện tính dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị nước ta. Theo đó, khoản 3, Điều 33 viết lại như sau: khi cần thiết hoặc khi có yêu cầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy định tại khoản 1 điều này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
ĐBQH Phạm Đức Châu (Quảng Trị): Làm rõ tính nhân dân trong giám sát, phản biện
Về chức năng phản biện của Mặt trận Tổ quốc, tôi vẫn muốn làm rõ thế nào là tính nhân dân. Ở đây nói, phản biện của Mặt trận mang tính nhân dân - phải chăng, chúng ta có sự phân biệt tính nhân dân dễ dãi hơn, không quan trọng và không có hiệu lực bằng giám sát quyền lực? Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân; Nhà nước cũng hoạt động mang tính nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Bây giờ, chúng ta nói Mặt trận cũng giám sát mang tính nhân dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực thì giám sát của Mặt trận có mang tính quyền lực không? Dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc ViệtNam (sửa đổi) không phân biệt chỗ này. Theo tôi, phân biệt ở chỗ, giám sát quyền lực nhà nước và giám sát ngoài quyền lực nhà nước. Ví dụ như giám sát xã hội, mọi người, mọi cá nhân, tổ chức đều có thể giám sát lẫn nhau. Không phải nói giám sát Mặt trận mang tính nhân dân để chúng ta nói giám sát của Mặt trận Tổ quốc không mang tính quyền lực. Cách phân biệt đó tôi không đồng tình.
Về đối tượng giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, nếu nói phản biện của Mặt trận theo kiểu chỉ có liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân là rất mơ hồ. Không biết chương trình, dự án nào không ảnh hưởng tới quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân? Ví dụ, dự án sân bay quốc tế Long Thành là phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân rất nhiều. Vậy dự án này có thuộc đối tượng phản biện của Mặt trận không? - trong thực tế không thể phân biệt vì mọi chương trình, dự án đều có ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân. Ngay trong quy định này của dự thảo Luật cũng đã có mâu thuẫn. Khoản 1, Điều 33 nói: dự án nào có liên quan, nhưng ở khoản 3, Điều 33 lại nói: liên quan trực tiếp. Vậy thế nào là liên quan, thế nào là liên quan trực tiếp? - Ai phân biệt được? - Ngay trong một điều luật đã mâu thuẫn rồi. Theo tôi, việc dự án, chương trình nào cần phản biện phải quy định trong luật. Yêu cầu trong trình tự, thủ tục thông qua phải có ý kiến phản biện của Mặt trận thì bắt buộc phải có ý kiến phản biện. Còn việc Mặt trận có thể lựa chọn tham gia để phản biện, giám sát thì đó là việc của Mặt trận nhưng bắt buộc về mặt pháp luật khi thông qua các chương trình, dự án quan trọng buộc phải có ý kiến phản biện của Mặt trận. Đó như quy trình bắt buộc thì lúc đó mới giao nhiệm vụ chính thức, QH giao nhiệm vụ chính thức cho Mặt trận. Tôi đề nghị, phản biện của Mặt trận dù là phản biện xã hội hay phản biện theo như dự thảo quy định nhưng là một quy trình bắt buộc trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua các dự án thì bắt buộc Mặt trận phải phản biện. Quy định như vậy vừa gắn với trách nhiệm của Mặt trận vừa gắn với nhiệm vụ của Nhà nước chúng ta là phải coi trọng phản biện của Mặt trận chứ không phải cứ phản biện cũng được, không phản biện cũng được. Phải coi đó là một quy trình bắt buộc để bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích chính đáng của người dân khi chúng ta thông qua các chương trình, dự án.
Người đại biểu nhân dân