462
+ aa -

Chính trị - Xã hội

Cập nhật lúc : 19/01/2015 14:03
Ngoại giao nhân dân - bắc những cây cầu vững chắc của lòng dân với lòng dân
Ngoại giao nhân dân có lợi thế so với ngoại giao của Nhà nước. Khi ngoại giao nhân dân lên tiếng, đó là tiếng nói, tình cảm giữa nhân dân quốc gia này với nhân dân quốc gia khác, là lòng dân với lòng dân. NGUYÊN CHỦ NHIỆM ỦY BAN ĐỐI NGOẠI, CHỦ TỊCH HỘI HỮU NGHỊ VIỆT NAM - CAMPUCHIA VŨ MÃO cho rằng, thực tế hoạt động của ngoại giao nhân dân, nòng cốt là các hội hữu nghị, cho thấy đây là một trong những phương thức hiệu quả để kết nối tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Do vậy, việc phát huy, khai thác được vai trò, tiếng nói của hội hữu nghị, tranh thủ được sự đoàn kết của nhân dân các nước sẽ góp phần cùng ngoại giao của Nhà nước củng cố và phát triển mối quan hệ bền chặt của nước ta với các nước trên thế giới.

- Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia được thành lập khá sớm, từ đầu năm 1975. Vì sao trong thời điểm nước sôi lửa bỏng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước như vậy, chúng ta lại quyết định thành lập Hội, thưa nguyên Chủ nhiệm?

 

- Hội Hữu nghị Việt Nam- Campuchia thành lập năm 1975, đến nay đã có 40 năm hoạt động. Nếu nói ở góc độ một tổ chức Hội thì thời điểm thành lập như thế là sớm, thời gian hoạt động khá dài. Tuy nhiên, nếu nhìn từ mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Campuchia thì năm 1975 mới thành lập Hội, theo tôi cũng là muộn. Vì chúng ta biết, Việt Nam và Campuchia, rộng hơn là Việt Nam- Lào - Campuchia đã có lịch sử quan hệ rất lâu đời. Chỉ tính trong giai đoạn lịch sử từ năm 1930, khi chúng ta thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương đã thể hiện rõ mối quan hệ khăng khít giữa 3 nước Đông Dương. Lịch sử đã tạo ra sự gắn bó đó vì thực dân Pháp coi Đông Dương có 5 xứ: Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ, xứ Lào và xứ Campuchia. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người cộng sản đầu tiên của 3 nước đã thành lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh đạo nhân dân 3 nước đấu tranh giành độc lập. Sau đó, mặc dù có nhiều biến động trong lịch sử của cả 3 nước nhưng sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn gắn bó mật thiết với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Lào, Campuchia. Vì thế, theo tôi, năm 1975 mới thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam- Campuchia không phải là sớm mà chính là muộn. Lẽ ra, phải thành lập sớm hơn. Nhưng thời điểm năm 1975 là chín muồi. Khi đó, chúng ta đang chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh để giải phóng miềnNam. Chúng ta cũng đang giúp cách mạng Campuchia để tiến tới giải phóng Campuchia. Rõ ràng, trong chiến tranh, hai nước đã gắn bó máu thịt rồi thì khi giành chiến thắng, giải phóng đất nước, bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước càng cần phải duy trì, củng cố mối quan hệ với Campuchia, trong đó, phải có hoạt động đối ngoại nhân dân vì đây là hoạt động đối ngoại bền vững, lâu dài, tác động trực tiếp đến nhận thức và tình cảm của nhân dân hai nước. Việc thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam- Campuchia chính là tổ chức nòng cốt cho hoạt động đối ngoại giữa nhân dân hai nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng ta về ngoại giao nhân dân.

 

- 40 năm hoạt động của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia cũng khá thăng trầm, gian nan, thưa nguyên Chủ nhiệm?


- Việt Nam và Campuchia không chỉ là hai nước láng giềng gần gũi, có chung đường biên giới dài gần 1.200km mà trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, hai nước đã luôn kề vai sát cánh chống kẻ thù chung và đã giành được những thắng lợi to lớn, đặc biệt là thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của nước ta và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot - chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử Campuchia; tiếp đó là 10 năm, chúng ta giúp nhân dân Campuchia giữ vững, khôi phục và hồi sinh đất nước (1979 - 1989). Hiện nay, quan hệ Việt Nam- Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển theo phương châm láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động của Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

 

Tuy nhiên, quan hệ hai nước cũng có những bước thăng trầm, chủ yếu là do sự biến động về chính trị của bạn nên hoạt động của Hội cũng gặp nhiều khó khăn.

 

Sau năm 1975, Pol Pot phản bội, chống lại nhân dân Campuchia, chống lại Việt Nam nên hoạt động của Hội trong giai đoạn từ 1975 - 1979 rất gian nan, vất vả, hầu như không có hoạt động gì đáng kể. Đến năm 1979, chúng ta giúp Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng Pol Pot, giải phóng Campuchia, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, rồi thành lập Chính phủ Campuchia thì các hoạt động ngoại giao nhân dân, trong đó có hoạt động của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia mới được tổ chức trở lại. Năm 1981, Campuchia thành lập Hội Hữu nghị Campuchia - ViệtNamdo Tổng thư ký QH Chan Ven làm Chủ tịch. Từ đó đến những năm 1990, hoạt động giữa Hội hữu nghị hai nước rất gắn bó và có nhiều hoạt động thiết thực, đóng góp vào việc củng cố quan hệ ngoại giao hai nước. Nhưng từ năm 1991 trở đi, bên phía Campuchia không có Hội hữu nghị Campuchia - Việt Nam nữa, tình hình chính trị của bạn cũng có một số biến động nên các hoạt động ngoại giao nhân dân giữa hai nước không còn được như trước. Lúc đó, chúng ta vẫn tổ chức Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động ngoại giao nhân dân với Campuchia, đặc biệt là tuyên truyền cho người dân Việt Nam hiểu về mối quan hệ giữa hai nước, tầm quan trọng của việc gìn giữ và phát triển mối quan hệ hai nước... Khi đó, tôi là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn thanh niên, đồng thời là Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam- Campuchia. Chúng tôi đã gắn kết hoạt động của Hội Hữu nghị với hoạt động của Đoàn Thanh niên, cử lực lượng chuyên gia của Đoàn thanh niên Việt Nam sang hỗ trợ Đoàn thanh niên Campuchia. Từ năm 1991, tôi làm Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị ViệtNam- Campuchia, đồng thời vẫn là Chủ tịch Hội Hữu nghị ViệtNam- Campuchia. Bên phía Campuchia cũng có Nhóm nghị sỹ hữu nghị Campuchia - Việt Namdo bà Men Sam An làm Chủ tịch. Để bù đắp cho việc bên phía Campuchia không có Hội Hữu nghị Campuchia - Việt Nam, tôi gắn hoạt động của Hội hữu nghị vào với hoạt động của Nhóm nghị sĩ, khai thác khía cạnh hợp tác hữu nghị giữa hai nhóm nghị sĩ để giữ mối quan hệ cho Hội hữu nghị. Mãi đến thời gian sau này, khoảng từ năm 2000 thì Campuchia mới thành lập lại Hội hữu nghị với Việt Nam nhưng hoạt động cũng rất khó khăn vì bên phía bạn là đa đảng, cũng có những lực lượng chống đối, cản trở quan hệ giữa hai nước. Với vai trò là Chủ nhiệm VPQH, sau đó là Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của QH, tôi tiếp tục khai thác thế mạnh này để hỗ trợ cho hoạt động của Hội hữu nghị. Vì thế, từ những năm 2000 trở lại đây, hoạt động của Hội hữu nghị được duy trì đều đặn và tích cực hơn.

 

- Cụ thể, Hội đã tổ chức được những hoạt động như thế nào, thưa nguyên Chủ nhiệm?


- Như tôi đã nói, từ năm 2000 đến nay, Hội mới có điều kiện hoạt động thường xuyên và tích cực hơn. Các mảng hoạt động khá toàn diện. Về công tác tuyên truyền, vun đắp quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước, Hội đã tìm tòi, sáng tạo ra nhiều hình thức phong phú, nội dung sâu sắc có tác dụng khơi dậy tình nghĩa gắn bó sâu đậm, thủy chung của các thế hệ cựu quân tình nguyện và cựu chuyên gia Việt Nam đã từng chiến đấu và công tác tại Campuchia, cũng như của các cán bộ Campuchia đã từng học tập, công tác tại Việt Nam; vun đắp tình hữu nghị đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với lưu học sinh Campuchia đang học tập tại Việt Nam. Lãnh đạo Hội đã tích cực tham gia và đóng góp ý kiến tại Hội nghị quán triệt thực hiện các thỏa thuận cấp cao Việt Nam - Lào - Campuchia do Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức hàng năm; thiết lập và duy trì website của Hội để cung cấp thông tin về hoạt động của Hội cũng như quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Campuchia; xuất bản Tạp chí về quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia từ năm 2009, xuất bản sách Văn - thơ - nhạc về tình hữu nghị hai nước bằng cả tiếng Việt và tiếng Khmer, xuất bản đặc san Hữu nghị Việt Nam - Campuchia nhân kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước. Hội cũng đã chủ trì tổ chức thành công nhiều hoạt động giao lưu, gặp gỡ hữu nghị, mít tinh nhân những ngày lễ lớn của nước bạn và những sự kiện lớn trong quan hệ giữa hai nước. Đặc biệt, Hội đã tổ chức thành công Lễ mít tinh cấp Nhà nước kỷ niệm 33 năm giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot (tháng 1.2012); phối hợp với một số cơ quan, đơn vị tổ chức đêm giao lưu nghệ thuật Bài ca hữu nghị tại thành phố Hồ Chí Minh, tái hiện cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot; tổ chức và tham gia các cuộc Gặp gỡ hữu nghị và hợp tác nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Từ tháng 1.2012, Hội đã phối hợp với Đại sứ quán Vương quốc Campuchia tại Việt Nam tổ chức thí điểm việc đỡ đầu 49 lưu học sinh Campuchia tại Việt Nam. Những gia đình tình nguyện nhận đỡ đầu các cháu lưu học sinh là các cựu quân tình nguyện, cựu chuyên gia đã từng chiến đấu, công tác tại Campuchia và một số Ủy viên Ban chấp hành Hội. Thông qua việc nhận đỡ đầu các lưu học sinh, chúng tôi mong muốn mang đến cho các cháu một gia đình, để các cháu cảm nhận được tình cảm ấm áp của gia đình trong những ngày học tập tại Việt Nam, cũng là để các cháu hiểu rõ hơn về văn hóa, tập quán, truyền thống của người Việt. Chúng tôi còn xây dựng và giữ được mối quan hệ thân thiết, gắn bó với gia đình các cháu lưu học sinh bên Campuchia. Sau này, các cháu lưu học sinh trở về làm việc, công tác tại Campuchia chính là những nhân tố quan trọng để gìn giữ và phát triển mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, hữu nghị với Việt Nam. Mọi người gọi hoạt động này là Ươm mầm hữu nghị và được lãnh đạo hai nước rất hoan nghênh. Đặc biệt, Quốc vương Campuchia Shihamoni và Thủ tướng Hun Sen đánh giá cao về ý nghĩa chính trị của sáng kiến này.

 

Hội cũng đặc biệt chú trọng thực hiện các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa. Các hoạt động tiêu biểu như: trước cuộc bầu cử QH Khóa V của Campuchia (tháng 7.2013), theo đề nghị của Ban Thư ký Thượng viện Campuchia, Hội đã tổ chức đoàn bác sĩ đi khám bệnh, phát thuốc từ thiện và tặng quà cho bà con Campuchia tại huyện Russey, thủ đô Phnompenh, thiết thực ủng hộ Đảng Nhân dân Campuchia. Hội cũng đã vận động các doanh nghiệp tặng sổ tiết kiệm, nhà tình nghĩa cho các cựu quân tình nguyện Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn, gia đình các liệt sĩ đã hy sinh tại Campuchia. Những hoạt động này, mặc dù về vật chất có thể chưa nhiều, nhưng là nghĩa tình, là sự tri ân của Hội với những người đã đóng góp một phần xương máu của mình trên nước bạn, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả mà Đảng và Nhân dân giao phó. Họ chính là biểu tượng sinh động cho tình đoàn kết, keo sơn giữa Việt Nam và Campuchia.

 

Cùng với các hoạt động hữu nghị, đền ơn đáp nghĩa, ươm mầm hữu nghị, Hội cũng đặc biệt chú trọng đến các hoạt động nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, khoa học giữa hai nước, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của Hội. Đến nay, Hội đã thành lập Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam - Campuchia nhằm tập hợp các doanh nghiệp để tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đầu tư vào Campuchia; tạo mọi điều kiện trong khuôn khổ khả năng của Hội để giúp các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Campuchia cũng như các doanh nghiệp Campuchia muốn đầu tư vào Việt Nam. Hội cũng đã tổ chức 3 đoàn doanh nghiệp Việt Nam sang Campuchia tìm hiểu thị trường, tổ chức hội thảo, trao đổi với các cơ quan liên quan tại Campuchia để tìm hiểu Luật Đầu tư và các chính sách đầu tư của Campuchia; tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả tại Campuchia. Nhiều tỉnh hội, thành hội đã chủ động phát huy vai trò là cầu nối trong các hoạt động hợp tác giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch, khoa học kỹ thuật với các địa phương của Campuchia…

 

- Từ thực tế hoạt động của Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia cho thấy, ngoại giao nhân dân, mà nòng cốt là các Hội hữu nghị là một trong những phương thức hiệu quả để kết nối, gìn giữ và phát huy mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân các nước. Đã từng hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao của QH và nhiều năm trực tiếp tổ chức các hoạt động của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, nguyên Chủ nhiệm thấy hoạt động ngoại giao nhân dân vừa qua như thế nào?


- Đảng và Nhà nước ta luôn xác định mặt trận ngoại giao gồm có 3 lĩnh vực là: ngoại giao của Đảng; ngoại giao của Nhà nước (gồm ngoại giao của QH, ngoại giao của Chính phủ) và ngoại giao nhân dân. Ngay trong thời kỳ đấu tranh cách mạng trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã luôn đặc biệt coi trọng mặt trận ngoại giao nhân dân. Từ quan điểm này, chúng ta đã tranh thủ được sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân thế giới, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học trên thế giới đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Ngoại giao nhân dân có một lợi thế so với ngoại giao của Nhà nước đó là tiếng nói, là tình cảm giữa nhân dân nước này với nhân dân nước khác, là lòng dân với lòng dân. Tranh thủ được sự đoàn kết của nhân dân các nước là yếu tố quan trọng, bền vững để củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa quốc gia này với quốc gia khác. Quan điểm, nhận thức của Đảng, Nhà nước về ngoại giao nhân dân là rất rõ ràng và nhất quán như vậy. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai thực hiện thì chưa tương xứng. Tôi nói ví dụ, ngoại giao nhân dân thì có rất nhiều hoạt động, nhưng trong đó, hoạt động của Hội Hữu nghị là nòng cốt. Hiện nay, chúng ta có hơn 60 Hội hữu nghị - con số này không phải là ít, nhưng chất lượng hoạt động không đồng đều, có Hội tương đối tích cực, tương đối hiệu quả nhưng cũng có nhiều hội gần như không có hoạt động gì đáng kể, chỉ có ngày kỷ niệm Quốc khánh của bạn thì tổ chức mít tinh chào mừng, gặp gỡ thôi. Khó khăn như thế chủ yếu là vì yếu tố tài chính. Hiện nay, các Hội hữu nghị chỉ được cấp một phần ngân sách nhỏ giọt và không đáng kể từ Hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị ViệtNam. Khi tôi còn công tác, làm Bí thư Đoàn thanh niên thì huy động được sự hỗ trợ từ Đoàn thanh niên, sau này về QH thì tranh thủ được sự hỗ trợ của QH để duy trì, tổ chức các hoạt động của Hội. Còn bây giờ, kinh phí hoạt động của Hội phải dựa vào việc huy động sự đóng góp của các anh em trong Ban chấp hành Hội, các thành viên của Hội và các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị. Nếu không huy động được sự ủng hộ này thì hầu như không có kinh phí để hoạt động.

 

Hiện nay, trong văn bản, chỉ thị của Đảng đều xác định Hội hữu nghị là tổ chức chính trị - xã hội. Mà đã là tổ chức chính trị - xã hội thì có các điều kiện bảo đảm hoạt động. Nhưng thực tế hiện nay, điều kiện hoạt động của các Hội hữu nghị cũng đang giống như Hội nghề nghiệp, Hội làm vườn, Hội cây cảnh thôi… Vướng lớn nhất hiện nay là, chúng ta chưa có cơ chế cụ thể cho hoạt động của các Hội hữu nghị. Tôi cho rằng, đây là một thiếu sót cần sớm xem xét, khắc phục vì ngoại giao nhân dân, mà nòng cốt là các hội hữu nghị là bắc những cây cầu vững chắc để kết nối tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước. Cần phải phát huy vai trò và tiếng nói của các hội hữu nghị để đóng góp tích cực cho hoạt động ngoại giao nhân dân, từ đó, góp phần cùng với ngoại giao của Nhà nước củng cố, phát triển mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.

- Xin cám ơn nguyên Chủ nhiệm!


Người đại biểu nhân dân