
Thưa ông, hiện nay chúng ta đang nhắc nhiều đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. Với vai trò là Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu Dân số, Gia đình và Trẻ em, ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Để đánh giá mức độ cân bằng giữa số nam và số nữ, có thể dùng chỉ tiêu: tỷ số giới tính, tức là số nam tương ứng với 100 nữ. Chẳng hạn, năm 2009, ở Việt Nam, trung bình cứ 100 nữ thì có 98,1 nam, hay tỷ số giới tính là 98,1. Như vậy, nhìn tổng thể thì dân số Việt Nam gần đạt đến cân bằng nam, nữ. Không chỉ quan tâm đến sự cân đối giữa nam và nữ của toàn bộ dân số mà còn cần chú ý đến sự cân bằng này ở trẻ sơ sinh, thông qua chỉ tiêu chỉ số giới tính (Sex Ratio at Birth - SRB). Theo quy luật tự nhiên, tỷ số này, thường vào khoảng từ 104 - 106 cháu trai.
Ở nước ta, năm 1999, tỷ số giới tính khi sinh là 107, năm 2009 tăng lên 110,6 và đến năm 2013 đã tăng lên 113,8! Đây là tỷ số vào loại cao trên thế giới trong những năm gần đây. Trung Quốc năm 2008 là 120,6; Azerbaijan năm 2006 là 117,2: Armenia năm 2008 là 115,8; Ấn Độ: từ năm 2004 - 2006 là 110,6. Rõ ràng, Việt Nam đang có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, theo hướng sinh nhiều con trai hơn con gái và tình trạng này đang ngày càng nghiêm trọng.
- Vậy theo ông đâu là nguyên nhân của tình trạng này?
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Tình trạng mất cân đối giới tính ở trẻ sơ sinh theo hướng các cháu trai nhiều hơn các cháu gái có nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân cơ bản là sự phát triển kinh tế - xã hội thấp. Cơ cấu xã hội thể hiện rõ tính chất tam nông. Trong nền sản xuất nông nghiệp, sự vượt trội về cơ bắp của con trai trở thành một ưu điểm. Năng suất lao động thấp nên cha mẹ thường không có tích lũy để dành cho tuổi già nên khi hết khả năng lao động cuộc sống phải dựa vào con, chủ yếu là con trai, đa số chưa có bảo hiểm xã hội.
Nguyên nhân sâu xa là về văn hóa. Tâm lý sự ưa thích con trai, trọng nam, khinh nữ, đặc biệt là những quan niệm nối dõi tông đường, tập quán con trai phải thờ cúng tổ tiên và nhiều phong tục khác thấm đẫm tư tưởng Nho giáo làm cho tâm lý nhất thiết phải có con trai vẫn còn ngự trị ở nhiều người.
Nguyên nhân trực tiếp là sự phát triển của khoa học, kỹ thuật cho phép cung cấp dịch vụ tư vấn và kỹ thuật sinh được con trai vừa rẻ tiền, vừa có kết quả nhất định, làm cho dịch vụ này lan tỏa nhanh.
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh thuộc loại mất cân bằng vật chất - nền tảng sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, tất yếu dẫn đến nhiều hậu quả, chẳng hạn:
Thứ nhất, khó khăn trong việc kết hôn. Theo tính toán, nếu giảm được SRB xuống mức tự nhiên là 105 vào năm 2025 thì số nam giới trong độ tuổi 20 - 49 đến giữa thế kỷ XXI vẫn nhiều hơn số nữ (15 - 44) là 2,3 triệu người. Nếu không, chênh lệch này còn nhiều hơn nữa. Hậu quả là nữ giới có thể kết hôn sớm hơn nhưng nam giới sẽ kết hôn muộn, thậm chí phải sống độc thân, cấu trúc gia đình - vợ chồng, cha mẹ - con cái bị phá vỡ, an sinh khi tuổi già bị đe dọa.
Do khan hiếm phụ nữ trong nước, nhiều đàn ông ở một số nước châu Á đã phải xuất cảnh tìm vợ. Hôn nhân không dựa trên tình yêu, không hiếm bi kịch đã xảy ra đối với gia đình và hệ lụy đối với xã hội.
Thứ hai, nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Do nhiều nam giới không thể kết hôn hoặc kết hôn muộn có thể dẫn đến quan hệ tình dục ngoài hôn nhân tăng lên, mại dâm khó kiểm soát. Vì vậy, nguy cơ lây lan các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS tăng cao.
Thứ ba, gia tăng tội phạm xã hội. Sự khan hiếm phụ nữ sẽ xảy ra tình trạng tranh giành trong hôn nhân. Nạn lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ… có thể sẽ tăng. Phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh được con trai.
- Ông có thể cho biết những giải pháp, định hướng để ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta?
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Theo tôi, thứ nhất cần đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế, xã hội nhất là an sinh xã hội là một giải pháp cơ bản để hạn chế mất cân bằng giới tính khi sinh. Nhật Bản, Hàn Quốc là nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng nhờ kinh tế - xã hội phát triển vượt trội nên đã không còn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật. Pháp lệnh Dân số đã có một số điều, khoản liên quan trực tiếp đến việc cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Tuy nhiên, việc thực hiện các điều khoản này chưa được nghiêm. Vì vây, cần nâng cao tính tính pháp lý hơn nữa và cụ thể hóa thông qua Nghị định, Thông tư để những quy định này đi vào cuộc sống. Mặt khác, khi xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội cần chú ý tới khía cạnh giới, đặc biệt là việc khuyến khích, hỗ trợ các gia đình chỉ có hai con gái.
Thứ ba, tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật. Mặc dù Pháp lệnh Dân số đã cấm nhưng việc hướng dẫn sinh con trai vẫn tràn ngập trên mạng điện tử, tỷ lệ phụ nữ biết giới tính thai nhi vẫn rất cao và ngày càng tăng, năm 2003 - 2004 là 61%, năm 2013 lên đến 83%! Rõ ràng, sự vi phạm pháp luật rất phổ biến nhưng cho đến nay, số trường hợp bị phát hiện và xử phạt hầu như không đáng kể. Vì vậy, tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật về giới tính thai nhi, xử lý nghiêm khắc người vi phạm là giải pháp cần thiết hiện nay.
Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền - giáo dục. Việc vi phạm một cách phổ biến Pháp lệnh Dân số như đã nói ở trên cho thấy hầu hết người dân và nhiều người làm dịch vụ chưa thực sự nhận thức đầy đủ về Pháp lệnh này. Vì vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về cấm lựa chọn giới tính thai nói riêng và bình đẳng giới nói chung.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
Người đại niểu nhân dân