
Cộng đồng quốc tế từ lâu đã nhận thấy hạn hán và sa mạc hóa là vấn đề rất rộng, liên quan tới cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1977, Hội nghị về sa mạc hóa của Liên hợp quốc (UNCOD) đã thông qua một kế hoạch hành động chống sa mạc hóa (PACD). Tuy nhiên, theo đánh giá của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) vào năm 1991, thoái hóa đất vẫn gia tăng ở các khu vực khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa khô hạn. Vì vậy, chống sa mạc hóa vẫn là một vấn đề chính tại Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED) tạiRio de Janeiro (Brazil) năm 1992. Hội nghị đã nhất trí thông qua một phương pháp tiếp cận đa ngành mới, tập trung vào các hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển bền vững ở cấp cộng đồng, đặc biệt là thông qua Công ước chống sa mạc hóa (UNCCD).
Năm 1994, Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố lấy ngày 17/6 hàng năm để kỷ niệm Ngày thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán, đánh dấu ngày thông qua Công ước chống sa mạc hóa. Ngày kỷ niệm này nhằm mục đích nâng cao nhận thức của cộng đồng xung quanh các vấn đề về hạn hán, sa mạc hóa và khuyến khích thực hiện UNCCD tại các quốc gia bị tác động nghiêm trọng bởi hạn hán và sa mạc hóa, đặc biệt là ở châu Phi.
Sa mạc hóa – vấn đề mang tính toàn cầu
Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc xác định hạn hán là suy thoái đất trong các khu vực khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa khô hạn. Trong những năm gần đây, hạn hán xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn. Hạn hán bắt nguồn từ biến đổi khí hậu có nguy cơ làm trầm trọng thêm hiện tượng sa mạc hóa.
Các bên tham gia UNCCD đều nhận thức rất rõ về nguy cơ sa mạc hóa và thấy rằng sa mạc hóa là vấn đề có qui mô toàn cầu, ảnh hưởng đến mọi vùng trên trái đất và cộng đồng thế giới cần phải có hành động chung để chống sa mạc hóa. Các bên đều có cái nhìn rõ ràng rằng sa mạc hóa là do nhiều nhân tố tác động như lý học, sinh học, chính trị, xã hội, kinh tế gây ra; nhận thức rõ tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển xã hội và xóa đói giảm nghèo là mục tiêu ưu tiên của các nước đang phát triển bị sa mạc hóa.
Sa mạc hóa ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, trong đó nhấn mạnh đến khía cạnh môi trường và sinh kế của người dân; dẫn đến hậu quả làm mất các thảm thực vật; sa mạc hóa khiến cho các đồng bằng bị ngập lũ, dẫn đến đất bị xâm nhập mặn, suy giảm chất lượng nước và phù sa của các sông và hồ.
Ngoài ra, trong một phân tích kinh tế được công bố hồi tháng 4 vừa qua, Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc cảnh báo rằng tình trạng thoái hóa đất hiện nay gây thiệt hại 490 tỉ USD mỗi năm và làm mất một diện tích đất gấp ba lần diện tích đất nước Thụy Sĩ. Thoái hóa đất và hạn hán đang cản trở sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Đây là thách thức mà các chính phủ cần xem xét một cách nghiêm túc.
Vòng tròn luẩn quẩn: Nghèo đói và sa mạc hóa
Những người nghèo sống ở vùng đất khô cằn đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Mất thu nhập, mất an ninh lương thực, sức khỏe suy yếu và các vụ mùa bất ổn. Thêm vào đó, họ thường buộc phải di chuyển đến các khu vực không bị ảnh hưởng bởi sa mạc hóa với hy vọng tìm được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Sinh kế của hơn 1 tỷ người sinh sống trong hơn 100 quốc gia đang bị đe dọa bởi sa mạc hóa. Đây là những người dân nghèo nhất và bị gạt ra ngoài lề xã hội, sống trong các khu vực dễ bị tác động nhất và có thể bị tác động nghiêm trọng nhất bởi tình trạng sa mạc hóa. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, nhìn chung, chất lượng cuộc sống của những người dân trong các khu vực hạn hán thấp hơn rất nhiều so với của những người dân ở các hệ sinh thái khác. Ví dụ, so sánh với các hệ sinh thái khác, tỷ lệ tử vong ở trẻ em trong các khu vực khô hạn cao hơn và tổng sản phẩm quốc nội cũng ít hơn. Điều này đồng nghĩa với việc các khu vực khô hạn nuôi sống người dân ở mức độ thấp hơn là những khu vực khác.
Trong khi đó, các áp lực kinh tế lại có thể dẫn đến việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên đất. Bắt nguồn từ nghèo đói buộc những người dân có sinh kế phụ thuộc vào đất phải khai thác quá mức nguồn tài nguyên này để có thức ăn, nơi ở và có nguồn năng lượng cũng như thu nhập. Sa mạc hóa vì vậy vừa là nguyên nhân lại vừa là hệ quả của đói nghèo. Nghèo đói dẫn tới sa mạc hóa và ngược lại sa mạc hóa cũng đẩy người dân tới đói nghèo.
An ninh lương thực cho tất cả mọi người thông qua hệ thống thực phẩm bền vững
Năm 2015, chủ đề của Ngày thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán được lựa chọn là: “Mục đích của an ninh lương thực cho tất cả mọi người thông qua các hệ thống thực phẩm bền vững”. Với chủ đề này, Ngày thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng thay đổi việc sử dụng đất của chúng ta thông qua một nền nông nghiệp thông minh thích nghi với biến đổi khí hậu, đặc biệt là tại các khu vực của thế giới bị suy yếu do hạn hán, nơi tình trạng thiếu lương thực đang trở nên nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, đây cũng là dịp để kêu gọi cải thiện việc tiếp cận với công nghệ và quyền về ruộng đất cho nông dân nhỏ, góp phần bảo vệ môi trường, đồng thời cho phép nuôi sống hàng triệu hộ gia đình, đặc biệt là những hộ nghèo nhất. Thêm vào đó, Ngày thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán kêu gọi tìm kiếm một sự cân bằng giữa sinh thái và tiêu dùng trong quá trình sử dụng đất, khuyến khích các hành động thực tế điển hình; đầu tư nhiều hơn vào sử dụng đất bền vững để các hệ thống thực phẩm bền vững trở thành chuẩn mực; tăng cường cuộc chiến chống sa mạc hóa, vốn có tác động đến an ninh, hòa bình.
Trong thông điệp đưa ra nhân ngày kỷ niệm này, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon cho biết: Suy thoái đất và sa mạc hóa ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người, bắt đầu với quyền về lương thực. Gần 1 tỷ người bị suy dinh dưỡng, ảnh hưởng nhiều nhất là những người phụ thuộc vào các khu vực bị suy thoái để sống, và tình hình của họ thậm chí có thể xấu đi nếu như theo dự kiến, sản lượng lương thực toàn cầu giảm 12% vào năm 2035.
Theo Tổng thư ký Ban Ki-moon, an ninh lương thực cũng bị tổn hại bởi việc giảm tài nguyên nước. Thoái hóa đất cũng làm giảm nguồn dự trữ nước và tuyết ở dưới các tầng đất ngầm. Trong 10 năm qua, 2 trong số 3 người trên thế giới có thể phải chịu hạn chế nước. Mỗi năm, chúng ta làm suy giảm 12 triệu ha đất sản xuất, tương đương với diện tích củaBeninvàHonduras. Suy thoái ảnh hưởng đến hơn một nửa số đất nông nghiệp, so với chỉ có 10% diện tích đất khai hoang. Hoặc chúng ta sẽ có thể tái sinh khoảng 500 triệu ha thay vì từ bỏ. Nếu chúng ta không thay đổi các cách thức khai thác đất đai thì mỗi năm, chúng ta sẽ buộc phải chuyển một diện tích tương đương với kích thước của Na Uy thành các cánh đồng nông nghiệp để đáp ứng các nhu cầu của chúng ta trong tương lai về thực phẩm, nước sạch và nhiên liệu sinh học, và để đảm bảo sự phát triển của các thành phố, với những hậu quả xấu mà điều đó gây ra - như phá rừng - đối với môi trường.
Và mối đe dọa không chỉ dừng lại ở đó. Do suy thoái và các mô hình sử dụng đất không bền vững khác, chúng ta sẽ giải phóng khoảng 1/4 lượng phát thải khí nhà kính gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu. Biến đổi khí hậu và việc khai thác không bền vững đất đai, đặc biệt là trong nông nghiệp, góp phần làm suy giảm nguồn nước ngọt ở tất cả các khu vực trên thế giới. Kết quả là, sản lượng lương thực toàn cầu sẽ giảm 2% mỗi 10 năm.
“Cuộc sống của chúng ta và nền văn minh của chúng ta phụ thuộc vào đất. Đầu tư vào đất đai lành mạnh để bảo vệ quyền của chúng ta về thực phẩm và nước ngọt” – Tổng thư ký Liên hợp quốc nhấn mạnh./.
ĐCSVN