
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi),Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện nêu rõ, tiếp thu ý kiến các ĐBQH, Dự thảo đã được UBTVQH chỉnh lý về nhiều nội dung như quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (các Điều 4, 43, 44 và 45); vị trí, vai trò, sự tham gia và việc phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát (các Điều 46, 57 và 58); thẩm quyền xác minh, thu thập chứng cứ của Viện Kiểm sát; thủ tục gửi, nhận đơn khởi kiện (Điều 190);...
Công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án
Về công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án (từ Điều 415 đến Điều 418), Dự thảo Bộ luật đã được chỉnh lý theo hướng tòa án chỉ xem xét công nhận kết quả hòa giải các vụ việc ngoài tòa án giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do người có thẩm quyền, tổ chức có nhiệm vụ thực hiện theo quy định của pháp luật tiến hành hòa giải (như kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải cơ sở, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động...). Quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án được thi hành như bản án, quyết định của tòa án theo pháp luật về thi hành án dân sự. ĐB Hà Thị Lan (Bắc Giang) tán thành cách quy định như vậy vì phù hợp với chủ trương, cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49/TW của Bộ Chính trị là khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng hòa giải trọng tài, tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó, giảm bớt được tình trạng người dân khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp.
Còn theo ĐB Đặng Công Lý (Bình Định), việc công nhận kết quả hòa giải sẽ bảo đảm các bên đương sự thực hiện đúng ý chí, quyền dân sự của mình khi đã được hòa giải ở các tổ chức hòa giải ngoài tòa án. Thực tế, có nhiều vụ việc hòa giải thống nhất nhưng sau đó họ thay đổi dẫn đến tranh chấp ra tòa. Nay nếu kết quả hòa giải đã được tòa án công nhận sẽ làm giảm bớt tranh chấp, ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội. Ngoài ra, để bảo đảm thủ tục công nhận kết quả hòa giải tại tòa án diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn, ĐB Trương Minh Hoàng (Cà Mau) đề nghị sửa đổi thời hiệu yêu cầu tòa án công nhận kết quả hòa giải tại Khoản 1, Điều 417 Dự thảo Bộ luật. Theo quy định này, người có yêu cầu phải gửi đơn đến tòa án trong thời gian một năm kể từ ngày hai bên đạt thỏa thuận hòa giải thành. Nhưng một năm là khoảng thời gian khá dài, gây khó khăn cho tòa án trong việc xem xét và quyết định công nhận kết quả hòa giải. Do đó, chỉ nên quy định thời hiệu yêu cầu tòa án công nhận kết quả hòa giải là 6 tháng – ĐB Trương Minh Hoàng đề nghị.
Không tổ chức phiên họp riêng để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận khai chứng cứ
Liên quan đến tổ chức phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ (từ Điều 208 đến Điều 211), UBTVQH nhận thấy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Để cụ thể hóa quy định này trong tố tụng dân sự thì cần thiết phải quy định trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) về quyền tiếp cận, công khai chứng cứ giữa các bên đương sự, bảo đảm tăng cường sự công khai, minh bạch, tạo điều kiện tốt hơn cho các bên đương sự thực hiện quyền tranh tụng của mình và bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự cần bảo đảm nhanh, gọn để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, tránh hình thức, gây tốn kém cho họ, cũng như tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Vì vậy, UBTVQH chỉnh lý theo hướng không quy định có một phiên họp riêng về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, mà nội dung này nên quy định thực hiện ngay trong phiên hòa giải để các bên đương sự có thể hòa giải, trình bày quan điểm của mình về những nội dung tranh chấp, vừa để các bên có điều kiện trao đổi, tiếp cận, công khai chứng cứ. Chỉ đối với các vụ việc không được tiến hành hòa giải (Điều 206 Dự thảo) thì mới tổ chức một phiên họp riêng để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ.
ĐB Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) nhấn mạnh, việc công khai giao nộp, tiếp cận chứng cứ tại phiên tòa hòa giải là cần thiết, nhằm giúp đương sự biết đầy đủ, chính xác chứng cứ của bên kia, có điều kiện để kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, chuẩn bị căn cứ phản bác lại, giúp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn giữ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành về cho phép đương sự được quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào là chưa hợp lý. Vì trong thực tế có trường hợp đến khi mở phiên tòa thì đương sự mới đưa ra chứng cứ, làm cho tòa án lúng túng trong việc nhận định đánh giá chứng cứ, dẫn đến vụ án bị hủy nhiều lần qua nhiều cấp xét xử, mất thời gian, tiền bạc của Nhà nước và đương sự. Để khắc phục tình trạng trên, ĐB Huỳnh Nghĩa đề nghị, Dự thảo cần quy định theo hướng buộc đương sự phải cung cấp chứng cứ trong một thời gian nhất định, tốt nhất là trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ trường hợp chứng minh đó là chứng cứ mới thu thập được.
Cho rằng việc tổ chức phiên họp để kiểm tra giao nộp chứng cứ và tiếp nhận chứng cứ là không cần thiết, ĐB Giàng Thị Bình (Lào Cai) chỉ rõ, nghĩa vụ chứng minh về cung cấp và giao nộp chứng cứ, xác minh thu thập chứng cứ, công bố và sử dụng chứng cứ, bảo quản chứng cứ đều được quy định tại Chương VII Dự thảo Bộ luật. Đồng thời, Khoản 8, Điều 70 của Dự thảo Bộ luật cũng quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự là: được biết và ghi chép sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác phát trình hoặc do Tòa án thu thập được. Các quy định nêu trên đã bao hàm cả một quy trình tố tụng mà người yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi, cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nhằm bảo đảm chứng cứ được đánh giá khách quan. Việc tổ chức phiên họp để kiểm tra, giao nộp chứng cứ sẽ làm kéo dài quy trình tố tụng giải quyết vụ án, vì vậy không nên đưa nội dung này vào Dự thảo Bộ luật.
Người đại biểu nhân dân