
Nói lên tiếng nói Nhân dân
Sự tham gia của nghị viện vào quan hệ đối ngoại của quốc gia gắn liền với việc thực hiện các chức năng của nghị viện: lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Vừa mang tính chính thức nhà nước lại vừa thể hiện ý chí của người dân nên ngoại giao nghị viện có tính linh hoạt, “ít cầu kỳ”, mềm mỏng hơn, có thể đi vào những nơi, những vấn đề gai góc mà ngoại giao Nhà nước, ngoại giao chính thức khó phát huy hiệu quả. Vì thế, thông qua ngoại giao nghị viện có thể mở rộng các kênh đối thoại, có ý nghĩa “mở đường”, “khai thông” và thúc đẩy xử lý các vấn đề đối ngoại khó, phức tạp.
Những năm gần đây, hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát của QH đã được triển khai mạnh mẽ, góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. QH đã ban hành nhiều đạo luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập quốc tế với việc ban hành, sửa đổi các quy định pháp luật, nhất là hệ thống pháp luật kinh tế như Luật Đầu tư nước ngoài; Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường, Bộ luật Lao động, Luật Đầu tư...
Đối ngoại của QH góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các nước trên tất cả các mặt: tăng cường sự hiểu biết, xây dựng lòng tin, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, du lịch, an ninh, quốc phòng… Trong chương trình hội đàm của lãnh đạo QH nước ta với lãnh đạo QH các nước, bên cạnh hợp tác nghị viện luôn có nội dung trao đổi về hợp tác song phương trong các lĩnh vực cụ thể. Các nghị viện, nghị sĩ nhiều nước đóng vai trò tích cực trong việc phê chuẩn và thúc đẩy thực hiện các chính sách của Chính phủ, thông qua nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ về giáo dục đào tạo, tạo thuận lợi tăng hạn ngạch trao đổi một số mặt hàng thiết yếu đối với sự phát triển của nước ta như dệt may, thủy sản, nông sản...
Cùng với các hoạt động song phương, công tác đối ngoại đa phương của QH ngày càng rộng mở, góp phần hiệu quả vào việc thực hiện đường lối đối ngoại chung và nâng cao vị thế của đất nước. Hoạt động đối ngoại của QH còn góp phần đấu tranh với thái độ thù địch, hoặc nhận thức sai lệch của một số thế lực về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. QH ta đã kiên trì chủ trương vừa tích cực vận động hợp tác, vừa kiên quyết đấu tranh có hiệu quả nhằm bác bỏ và ngăn cản những dự luật và nghị quyết sai trái liên quan đến dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.
Tích cực và chủ động
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và liên kết khu vực mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động đối ngoại của QH đóng vai trò quan trọng trong quá trình song hành với Chính phủ thúc đẩy liên kết khu vực và hợp tác quốc tế, thực hiện vai trò, vị thế của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu. Việc mở rộng hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nhận thức mới về đối ngoại nói chung và đối ngoại QH nói riêng, từ đó có thể đề xuất những phương hướng chủ yếu tiếp tục đổi mới hoạt động đối ngoại của QH.
Do vậy, trước hết, cần đẩy mạnh hoạt động đối ngoại của QH trên cơ sở phát huy vai trò và chức năng của QH. QH là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta. QH thực hiện cả ba chức năng: lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. QH đồng thời thực hiện hoạt động đối ngoại, có vai trò không thể thiếu, góp phần tạo thành sức mạnh tổng thể chung trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước. Từ đó, đặt ra yêu cầu QH phải có những phương thức tiếp cận phù hợp để phát huy hiệu quả hoạt động đối ngoại giúp QH thực hiện tốt chức năng lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Đổi mới hoạt động đối ngoại của QH trên cơ sở phát huy vai trò của QH trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quyền giám sát tối cao của QH đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước phải gắn liền với quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; bảo đảm để các cam kết quốc tế của nước ta được chấp hành nghiêm chỉnh và phát huy được tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, hoạt động đối ngoại của QH cần được triển khai theo hướng bảo đảm cho QH làm tốt các nhiệm vụ cụ thể của mình trong việc hoàn thiện luật pháp liên quan đến công tác đối ngoại; phê chuẩn kịp thời những điều ước quốc tế mà Chính phủ đã ký kết; giám sát thực chất và có hiệu quả hoạt động đối ngoại của Chính phủ; nâng cao chất lượng đối ngoại nghị viện cả về song phương lẫn đa phương, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta sâu rộng hơn nữa.
Thứ hai, đổi mới hoạt động đối ngoại của QH trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động đối ngoại song phương, đa phương.
Trong xu thế quan hệ quốc tế ngày càng đan xen và tính tùy thuộc ngày càng cao, cần đẩy mạnh quan hệ hợp tác liên nghị viện trên cả kênh song phương và đa phương, coi trọng cả hai kênh này để bổ sung cần thiết và phát huy hiệu quả mỗi kênh. Đồng thời trong việc triển khai ngoại giao nghị viện chúng ta cần phải chủ động và linh hoạt theo đúng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Khi hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu phải toàn diện. Nói cách khác là xây dựng một nền đối ngoại toàn diện, giúp tạo nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, loại hình, kênh đối ngoại trên cơ sở quán triệt đầy đủ, đúng đắn các chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động đối ngoại nói chung, đối ngoại của QH nói riêng. Theo đó, cần có kế hoạch tổng thể và sự chỉ đạo thống nhất, phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, lĩnh vực đối ngoại để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Nhà nước ta.
Thứ ba, tiếp tục tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại của QH với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại của Đảng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại. Sự phối hợp này được thể hiện ở tất cả các khâu, từ xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến công tác đối ngoại, tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại, phối hợp triển khai và trực tiếp tiến hành các hoạt động đối ngoại cho đến bảo đảm ngân sách cho các hoạt động đối ngoại; đồng thời, có sự phân công và đề cao trách nhiệm của mỗi cơ quan thuộc QH, Chính phủ trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, trong bối cảnh tình hình thế giới ngày càng có nhiều những diễn biến khó lường, phức tạp, những thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, các mối nguy cơ đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực, đòi hỏi phải quan tâm, đẩy mạnh các kênh đối ngoại; tăng cường hợp tác giữa các quốc gia trên kênh ngoại giao nghị viện, nhất là phát huy vai trò của đối ngoại QH trong việc đòi hỏi các bên tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp, nhất là tranh chấp về chủ quyền, biển đảo thông qua biện pháp hòa bình và các cơ chế hợp tác quốc tế. Theo hướng này, chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để tăng cường hợp tác giữa AIPA - ASEAN, UN - IPU... và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa kênh ngoại giao song phương và đa phương, giữa ngoại giao Nhà nước và đối ngoại QH trong tổng thể hoạt động đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước ta.
Với vai trò là cơ quan lập pháp và giám sát tối cao, QH nước ta đóng vai trò quyết định trong việc tạo môi trường pháp lý để triển khai các chính sách đối ngoại của Nhà nước. Trong nhiều trường hợp, QH quyết định các chủ trương, chính sách lớn về đối ngoại như tham gia các tổ chức quốc tế, phê chuẩn các điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng. QH giám sát Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách đối ngoại và quyết định phân bổ ngân sách cho toàn bộ công tác đối ngoại. Do vậy, có thể nói “đối ngoại của QH tham gia vào mọi khâu của đối ngoại quốc gia”.
Đại biểu nhân dân