- Thưa ông, hiện nay chúng ta đang bước vào thời kỳ già hóa dân số?
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Luật pháp Việt Nam của chúng ta quy định những người từ đủ 60 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi (NCT). Tổ chức Y tế thế giới quy định, những người 60-74 được gọi là NCT; người 75 - 90 tuổi là người già; Người trên 90 là người già sống lâu. Trong khi đó, Liên Hợp Quốc quy định, nếu trong dân số có 10% người từ 60 tuổi trở lên thì dân số đó được coi là đã bắt đầu bước vào quá trình già hoá; từ 20% đến dưới 30% thì gọi là dân số già; từ 30% đến dưới 35% thì gọi là dân số rất già; từ 35% trở lên gọi là siêu già.
Cùng với xu hướng chung của thế giới, NCT Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số lượng và tỷ lệ. Theo số liệu năm 1989 tổng số dân là 64,41 triệu người, người cao tuổi 4,64 triệu người, chiếm 7,20%; năm 1999 số dân 76,32 triệu người, NCT 6,19 chiếm 8,11%; năm 2009 tổng số dân 85,85 triệu người, NCT 7,45 triệu người chiếm 8,70%; năm 2012 tổng dân số 88,77 triệu người, NCT 9,055 triệu người chiếm 10,20%, tức là đã bước vào quá trình già hóa. Thời điểm Việt Nam có dân số già khoảng năm 2032.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng già hóa dân số ở nước ta, trước hết là tuổi thọ được nâng cao từ 44,4 tuổi năm 1960, lên 73 tuổi năm 2009, đồng thời mức sinh giảm mạnh từ 7 con vào những năm 60, xuống khoảng 2 con và những năm đầu của thế kỷ XXI. Đây sẽ là các nhân tố thúc đẩy nhanh và mạnh hơn nữa quá trình già hoá dân số ở nước ta trong khoảng 10 - 20 năm tới. Điều này làm quan ngại sâu sắc về gánh nặng an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế chậm lại, sa bẫy thu nhập trung bình.
- Đâu là những thách thức trong việc bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NCT, thưa ông?
GS.TS Nguyễn Đình Cử: Thứ nhất, người cao tuổi ở nước ta số đông là nữ. Năm 2009, trong tổng số 7.452.747 NCT thì có 3.012.476 cụ ông, có tới 4.440.271 cụ bà, tức cứ 100 cụ ông thì có tới 147 cụ bà. Cuộc Tổng điều tra dân số 1999 cho thấy tỷ lệ này mới là 140, cần chú ý rằng tuổi càng cao thì số cụ bà lại càng nhiều hơn số cụ ông.
Rõ ràng, già hoá chủ yếu là già hoá nữ, và phụ nữ khi về già thường thiệt thòi hơn nam giới: Sống đơn côi và phải lo lắng cho những đứa con chưa trưởng thành. Bình quân 1 người về hưu vẫn phải có trách nhiệm nuôi 0,11 bố mẹ và 0,76 con. Như vậy, các chính sách đối với NCT cần đặc biệt chú ý đến phụ nữ, nhất là phụ nữ đơn côi, nuôi con chưa trưởng thành.
Chúng ta cần truyền thông, tư vấn, giáo dục cho phụ nữ ngay từ khi họ còn trẻ để họ tổ chức cuộc sống cho phù hợp với đặc điểm trên, chẳng hạn KHHGĐ để khi tuổi già không còn con chưa trưởng thành, tuyên truyền chuyển đổi quan niệm khắt khe của xã hội đối với việc tái giá của tuổi già.
Chúng tôi mong rằng, chính sách đối với NCT của Nhà nước cần hướng đến nông thôn, cần xây dựng và triển khai chính sách BHXH cho nông dân. Đẩy mạnh nghiên cứu các hình thức hoạt động cho NCT, trước hết là các hoạt động kinh tế phù hợp tăng thu nhập ở nông thôn. Khuyến khích nông dân lo cho tuổi già từ khi còn trẻ, tích cực tham gia BHXH tự nguyện khi hình thức bảo hiểm này được triển khai.
Thứ ba, người cao tuổi chủ yếu sống với con. Quy mô gia đình Việt Nam không ngừng giảm xuống, từ 5,22 khẩu/hộ (1979) giảm xuống 4,6 khẩu/hộ (1999) và chỉ còn 3,8 khẩu/hộ (2009). Thậm chí, một số tỉnh có tỷ lệ dân nông thôn lớn nhưng quy mô gia đình rất nhỏ như: Thái Bình: 3,2; Hải Dương, Nam Định, Hà Nam đều 3,3,… Như vậy, việc tự cung, tự cấp chăm sóc NCT sẽ ngày càng khó khăn do thiếu nhân lực gia đình, nhất là trong bối cảnh di cư trong nước và quốc tế diễn ra mạnh mẽ.
Theo tôi, chúng ta nên tuyên truyền và có chính sách khuyến khích đa dạng hóa nơi ở của NCT và đa dạng hóa các hình thức chăm sóc NCT. Bên cạnh hình thức tự cung, tự cấp chăm sóc NCT nên hình thành và phát triển hình thức dịch vụ chăm sóc NCT. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc xây dựng và phát triển các Trung tâm nuôi dưỡng, chăm sóc NCT. Nên coi đây là lĩnh vực được xã hội hóa để được hỗ trợ bằng các chính sách đất đai, chính sách vay vốn, chính sách đào tạo nguồn nhân lực…
Thứ tư, đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi còn khó khăn. Ngay ở Hà Nội, năm 2009 cũng có tới 51,3% những NCT không có lương hưu và trợ cấp cho là khó khăn, 38,8 % coi là vừa đủ, chỉ 9,4% dư dật. Về mặt tinh thần, sự khác biệt giữa thế hệ trẻ và thế hệ NCT rất lớn. Các thế hệ sinh ra và lớn lên trong các khung cảnh kinh tế, xã hội hết sức khác nhau: Chiến tranh và hòa bình; Kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và kinh tế thị trường; Nghèo đói và khá giả; Đóng cửa và hội nhập; Nông thôn và đô thị…. Từ đó, nhận thức, thái độ, hành vi của các thế hệ sẽ khác nhau. Nếu không có kiến thức, kỹ năng giải quyết tốt những khác biệt sẽ nảy sinh mâu thuẫn và xung đột thế hệ.
Nhà nước, gia đình, cộng đồng cần quan tâm cải thiện đời sống vật chất của NCT. Đồng thời quan tâm, chăm sóc hơn về đời sống tinh thần. Đẩy mạnh truyền thông, phổ biến kiến thức để các thế hệ luôn luôn lắng nghe, luôn luôn chia sẻ và luôn luôn thấu hiểu lẫn nhau, khắc phục sự khác biệt thế hệ, sống hoà hợp giữa các thế hệ trong gia đình và ngoài xã hội.
Thứ năm, sức khoẻ người cao tuổi nước ta được cải thiện nhưng chậm, tỷ lệ người có sức khoẻ tốt còn thấp hơn nhiều một số nước trong khu vực. Trong bối cảnh con ít lại di cư sống xa cha mẹ, các cơ sở chăm sóc NCT chưa nhiều và giá dịch vụ cao, chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng cho NCT trở thành vấn đề lớn. Chúng ta cần phải truyền thông để mọi người biết lo cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ, như: không hút thuốc, hạn chế rượu, bia, tích cực học tập, lao động, tích lũy, thực hiện KHHGĐ,… Phát triển mạnh mẽ hệ thống Bảo hiểm y tế cho NCT.
Có thể nói, người cao tuổi là một bộ phận dân cư ngày càng đông đảo. Đây là một lực lượng lao động, một kho tàng kinh nghiệm đồng thời cũng có nhiều vấn đề về đời sống, sức khoẻ, tâm lý, xã hội và sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh nghiên cứu hiện tượng này làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi chính sách, chiến lược quốc gia nhằm thích ứng với xu hướng già hoá dân số diễn ra mau chóng, phát huy được nguồn lực, vượt qua thách thức, phát triển bền vững đất nước.
Xin cảm ơn ông!
Người đại biểu nhân dân