Ở Trường Sơn nghe tin Bác đi xa
Cập nhật lúc : 22:23 09/01/2019
Một ngày đầu tháng Tám lịch sử, chúng tôi lại có dịp gặp gỡ, trò chuyện với cựu Chính trị viên biệt động thành, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Nguyễn Huy Ngọc tại ngôi nhà nơi ông đang ở (9 Tố Hữu) phường Phú Hội, Thành phố Huế. Với ông, mỗi lần gợi nhớ lại những ngày tháng đấu tranh gian khổ nhưng rất đổi tự hào ấy bao kỷ niệm lại ùa về trong niềm xúc động không nguôi.
Niềm tiếc thương vô hạn
Ông Nguyễn Huy Ngọc mở đầu câu chuyện: Chiến trường cả nước nói chung cũng như ở Thừa Thiên Huế nói riêng trong những năm 1968, 1969 vô cùng ác liệt. Địch thực hiện chiến lược tìm và diệt. Sau khi đánh trận Mậu Thân 1968 chúng ta bị địch phản kích, đánh từ Huế lên địa bàn Hương Trà về Hương Thủy, Phú Vang ra Phong Điền, Quảng Điền. Do vậy, toàn bộ lực lượng của ta đều phải rút lui lên vùng giáp ranh. Vùng giáp ranh Hương Trà là con đường xuất quân của con đường đại quân đánh vào Huế Tết Mậu Thân, cho nên ác liệt ở cấp độ cao.
Tôi lúc đó là Xã đội Trưởng xã Hương Thái (phường Hương Chữ hiện nay) nên vật lộn với kẻ thù trong những năm này rất gian khổ, ác liệt, dưới đồng bằng địch càn quét, cày ủi. Trên vùng giáp ranh địch phân ô thả cây nhiệt đới và lục soát theo phương vị, căn cứ, hậu cứ của chúng ta luôn luôn thay đổi. Từ tháng 7, 8, 9 chúng tôi phải di chuyển 3 đến 4 chỗ khi thì ở đồi Một Mái, núi Thông Cùng, khi thì ở đồi Thất Giới, dốc Ông Ầm, chân đồi Xước Dũ . Vì liên tục chuyển từ nơi này qua nơi khác, nên chúng tôi không kịp đào hầm trú ẩn cho chắc chắn. Mới đào được hố chưa kịp làm nhà thì địch đã đến, chúng tôi lại di chuyển. Mùa mưa năm đó rất to.
Trong một buổi sáng của ngày đầu tháng 9 năm 1969, dưới cơn mưa tầm tả, chúng tôi mở đài. Lúc đó, tôi có một cái đài national 3 băng, bin trung được cơ sở gửi ra cho để nghe tin tức và theo dõi tình hình. Khi nghe đài đọc thông báo đặc biệt của Ban Chấp hành Đảng Trung ương Lao động Việt Nam, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từ trần. Khi đó, trong tâm trạng của chúng tôi những anh em trong đội công tác xã Hương Thái lúc bấy giờ ngồi sửng sốt, lo lắng. Cái lo lắng lớn nhất lúc đó là, liệu Bác mất, cách mạng của mình có khó khăn nhiều hơn không, có đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào như lời thơ chúc Tết đầu năm không. Tâm trạng, tư tưởng đó luôn hiện ra, kéo dài trong từng đồng chí, đồng đội. Mãi đến ngày 09/9, khi nghe đọc Di chúc của Bác tại lễ truy điệu Bác ở Quảng trường Ba Đình Hà Nội của đồng chí Lê Duẫn: “Cuộc kháng chiến của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”. Chữ “nhất định thắng lợi” là ý chí, sức mạnh, là sự khẳng định để mỗi cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn chúng tôi xua tan những suy nghĩ khó khăn của cách mạng, khó khăn của chiến trường lúc bấy giờ.
Kết vòng hoa rừng làm lễ truy điệu Bác
Ông Nguyễn Huy Ngọc nhớ lại: Chủ trương của Tỉnh ủy Thừa Thiên, Huyện ủy Hương Trà lúc đó là, tất cả các đội công tác, các đơn vị, những nơi nào có điều kiện thì về đồng bằng để làm bàn thờ, tổ chức lễ truy điệu Bác. Đội công tác xã chỉ có 7 người. Vì vậy, chúng tôi phối hợp với nhiều đơn vị có cả bộ đội địa phương, các đội công tác khác, có cả kinh tế của khu và lực lượng của huyện khoảng 30 người tổ chức một đội hình hành quân về đồng bằng làm lễ truy điệu Bác.
Chúng tôi nghĩ, làm lễ truy điệu Bác thì cũng phải có ảnh Bác. Ảnh Bác tìm đâu ra trong lúc chiến trường đang ác liệt và khó khăn thế này. Trong cùi của mỗi cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn lúc bấy giờ chỉ có một nắm muối đề phòng khi lạc rừng và một ít thuốc Kynin chống sốt rét. Trước khó khăn đó, chúng tôi bàn, nếu không có ảnh Bác, thì nên có vòng hoa, có một giải băng đen ghi dòng chữ: “Vô cùng thương tiếc Bác Hồ kính yêu” và vẽ một lá cờ thế là đủ.
Lấy gì mà làm vòng hoa? Thoáng nghĩ, trên rừng có cây đùng đình, cây dương xỉ có cành lá như cây vạn tuế, hoa me tím, lá nón, bông trang rừng có thể kết vòng hoa. Nhờ vào sự khéo léo của nhiều người, một vòng hoa với những bông hoa vàng kết lại ở giữa, những bông đỏ kết vòng xung quanh, tượng trưng cho cờ đỏ sao vàng 5 cánh. Được thế chúng tôi phần nào yên tâm và thấy cũng rất trang trọng. Thế nhưng, đã có vòng hoa, nhưng tìm đâu ra giải băng đen đây. Rốt cuộc, chúng tôi phải dùng giấy cắt ra, rồi lấy than đen viết dòng chữ: “Vô cùng thương tiếc Bác Hồ kính yêu”.
Thường vụ Huyện ủy Hương Trà chủ trương, ở Hương Thái (nay là phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà) về đình La Chữ để làm lễ truy điệu Bác. Ở xã Hương Long (nay là phường Hương Long, Thành phố Huế) tổ chức lễ truy điệu Bác ở chợ Thông và một số nơi khác ở Văn Xá, Long Hồ, Ngọc Hồ, Lại Bằng… Trên đường từ vùng giáp ranh về điểm làm lễ truy điệu Bác, phải vượt qua rất nhiều chốt của địch, từ chốt dốc Đu đến chốt dốc Ồ Ồ vượt qua làng Thanh Khê, làng An Đô về làng Phú Ổ, qua đình làng La Chữ. Cách địa điểm làm lễ truy điệu khoảng 300 mét, đang vượt qua con hói, gặp địch phục kích. Triển khai đánh địch và phải rút lui, không thực hiện lễ truy điệu Bác được. Trên đường rút lui, về đến thôn An Đô thì gặp một đơn vị của liên quân Việt - Mỹ chặn đường. Địch bắn ta hy sinh 2 đồng chí là Lê Đình Vện, người làng La Chữ và Chế Quang Đẩu, người làng An Đô. Pháo địch lại bắn đuổi ta, nên có một số đồng chí bị thương nữa.
Tiếp tục đi để làm lễ truy điệu Bác Hồ, ngày 09/9 tại miếu Ông gần chợ Thông xã Hương Long lập được một bàn thờ và làm lễ truy điệu Bác. Lễ truy điệu nhớ về Bác Hồ kính yêu của chúng ta đối với cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn có thể được tổ chức ở trong một cơ quan dưới một căn hầm, hay ở một cánh rừng, trong một căn hầm bí mật nhưng dù ở đâu thì đây cũng là một kỷ niệm đau buồn, nhưng đầy quyết tâm bước vào cuộc chiến đấu mới.
Biến đau thương thành hành động
Chúng tôi luôn tự nhủ, làm lễ truy điệu tưởng nhớ Bác nhưng không được bi quan. Chủ trương của toàn Đảng lúc bấy giờ là “biến đau thương thành hành động”. Đó là cách mạng, đó là truy điệu Bác, đó là thực hiện Di chúc của Bác. Mỗi người có nhiều cách để thể hiện niềm tiếc thương đối với Bác, nhưng hành động lớn nhất là phải đánh giặc.
Tôi còn nhớ, một Đại đội đặc công của Quân khu Trị Thiên được tăng cường về Hương Trà trong những năm 1968 - 1969. Do bệnh tật đau yếu nên đại đội chỉ còn 17 chiến sĩ. Trong cuộc họp của đại đội, cán bộ lãnh đạo nói rằng, mục tiêu của chúng ta là phải đánh vào khu vận tải để súng đạn, máy bay trực thăng và xe của địch tại căn cứ Tứ Hạ. Trận đánh này chỉ cần 3 chiến sĩ cảm tử, đánh bằng cách tiếp cận mục tiêu để đặt bộc phá, hẹn giờ cho nổ tung khu vận tải này. 3 chiến sĩ được cử đi, đơn vị tổ chức lễ truy điệu trước và sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ. Đây quả là một sự lựa chọn khó khăn của người chỉ huy. Thế nhưng, với tinh thần biến đau thương thành hành động, vì Bác Hồ kính yêu, cả 17 chiến sĩ đều giơ tay xung phong và thể hiện quyết tâm được lựa chọn. Sau khi xem xét hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, kinh nghiệm, chỉ huy chỉ chọn 3 chiến sĩ đặc công ở 3 vùng quê khác nhau, một ở Hà Nội, một ở Thái Bình và một ở Hải Phòng.
Khu vận tải để súng đạn, máy bay và xe của địch đóng tại căn cứ Tứ Hạ có 12 lớp hàng rào thép gai, lớp này, cách lớp kia khoảng cách từ 9 đến 10 mét. Nếu tính hết cả 12 lớp thì khoảng cách chừng hơn 100 mét. Phương án đặt ra là, mật tập bò vào 9 lớp, lợi dụng địa hình, địa vật để ẩn mình, tối mai tiếp tục vượt qua 3 lớp còn lại, tiếp cận mục tiêu để đặt bộc phá. 3 chiến sĩ nhận nhiệm vụ mỗi người chỉ có 1 nắm cơm, 1 bánh lương khô và 1 bi đông nước. 3 chiến sĩ nhuộm người, ai cũng chỉ mặc 1 chiếc quần cộc, bên hông mang theo những quả bộc phá to bằng quả bưởi, có kíp hẹn giờ rất hiện đại. Sau 1 đêm, 1 ngày chờ đợi, đến 1 giờ sáng đêm thứ 2, khu vận tải để súng đạn, máy bay và xe của địch đóng tại căn cứ Tứ Hạ vang lên một tiếng nổ lớn. Tất cả khu vận tải của địch đạn nổ kéo dài 24 tiếng đồng hồ; 3 chiến sĩ đặc công hi sinh trong tiếng nổ long trờ lở đất ấy. Tôi không biết đầy đủ họ tên, chỉ biết một anh tên Tân, người Hải Phòng. Chúng tôi ai nấy đều đau thương nhớ Bác, lại càng bùi ngùi thương nhớ 3 đồng chí trong tiếng nổ đêm hôm đó.
Biến đau thương bằng hành động, xã Hương Long đánh vào phân chi khu Hương Long, xã Hương Thạnh đánh địch ở Văn Xá Làng, xã Hương Thái đánh vào Quán Rớ… và nhiều trận đánh khác nữa vượt lên những khó khăn của chiến trường sau năm 1968 - 1969 và tinh thần, tư tưởng sau khi Bác đi xa… cho đến ngày toàn thắng.
Anh Phong (ghi)
Bản quyền thuộc Thành ủy Huế
Vui lòng ghi rõ nguồn khi sao chép nội dung từ website http://thanhuyhue.vn/