In trang

25 năm - Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cố đô Huế
Cập nhật lúc : 11:32 09/12/2018

25 năm trước, ngày 11/12/1993, Quần thể di tích Huế chính thức được ghi vào Danh mục Di sản Thế giới của UNESCO. Đây là di sản thứ 410 trong Danh mục nhưng lại là di sản thế giới đầu tiên của Việt Nam. Mười năm sau, ngày 07/11/2003, Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam lại được UNESCO ghi tên vào Danh mục Kiệt tác văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của nhân loại (năm 2008 được gọi là Di sản Phi vật thể Đại diện của nhân loại). Tiếp theo, vào các năm 2009, 2014 và 2016 lần lượt các di sản: Mộc bản triều Nguyễn được công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới, Châu bản triều Nguyễn và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế cũng được Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO công nhận là Di sản tư liệu.

25 năm qua là chặng đường ghi nhận những nỗ lực lớn lao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thừa Thiên Huế, sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành, sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế, trong đó nổi bật là vai trò của UNESCO đối với công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế. Đó cũng là 25 năm ghi dấu những thành công to lớn về bảo tồn và phát huy giá trị di sản thế giới Huế trên nhiều phương diện. Ghi dấu ấn đồng hành với công cuộc này là sự thành lập Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế vào ngày 10/6/1982 với tên gọi ban đầu là Công ty Quản lý Di tích lịch sử và văn hóa Huế, được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa cung đình gắn liền với vương triều Nguyễn, bao gồm các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và cảnh quan môi trường gắn liền với khu di sản.

Trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước sau chiến tranh, việc bảo tồn di sản văn hóa Huế gặp muôn vàn khó khăn. Năm 1981, trong “Lời kêu gọi cứu vãn di sản văn hóa Huế” tại Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO lúc bấy giờ - Ngài M’Bow đã cho rằng, di sản Huế đang ở trong tình trạng lâm nguy, đang đứng bên bờ vực thẳm của sự diệt vong và sự quên lãng, chỉ có “một sự cứu nguy khẩn cấp” với nỗ lực của Chính phủ Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế thì mới có thể giúp Huế thoát ra khỏi tình trạng trên.

Hơn một thập kỷ tiếp theo là khoảng thời gian chứng kiến sự chuyển biến tích cực trong việc gìn giữ, bảo tồn di sản Huế. Tiến trình khôi phục Quần thể di tích Cố đô Huế là kết quả của những nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam, của chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế và của Trung tâm. Cho đến năm 1991, hầu hết các di tích quan trọng đã được lập hồ sơ khoanh vùng bảo vệ. Một vấn đề rất lớn cũng được đặt ra là làm sao phải có một chiến lược mang tầm quốc gia để bảo tồn các di sản vô giá này. Trong bối cảnh ấy, Trung tâm đã tập trung xây dựng Đề án “Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế, 1996 - 2010” và vào ngày 12/2/1996, đã được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 105/TTg phê duyệt. Mục tiêu cơ bản và dài hạn của Đề án thể hiện trên cả hai phương diện: Bảo tồn di sản văn hóa Cố đô Huế; Phát huy mọi giá trị quý giá của di sản văn hóa Cố đô Huế, bao gồm giá trị di sản văn hóa vật chất, giá trị di sản văn hóa tinh thần và giá trị di sản văn hóa môi trường cảnh quan đô thị và thiên nhiên trong việc giáo dục giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Quyết định số 105/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Thừa Thiên Huế triển khai thực hiện chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong suốt thời gian qua và cũng là cơ sở để Chính phủ ban hành Quyết định số 818/QĐ-TTg phê duyệt Đề án điều chỉnh “Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế, 2010 - 2020” vào ngày 07/6/2010.

Quần thể Di tích Cố đô Huế đón nhận bằng Di sản Văn hóa thế giới của UNESCO.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, di sản văn hóa Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang dần dần từng bước được hồi sinh, diện mạo ban đầu của một Cố đô lịch sử dần dần được khôi phục. Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế hiện đang chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Đặc biệt, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa đã luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực miền Trung, trọng tâm là kinh tế du lịch, dịch vụ. Những kết quả quan trọng ấy được thể hiện trên các mặt: Bảo tồn, trùng tu di tích; bảo tồn văn hóa phi vật thể; bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu; bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di sản; hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực; phát huy giá trị di sản…

Về công tác bảo tồn, trùng tu di tích: Đây là một trong những hoạt động cơ bản nhất của công tác bảo tồn di sản Huế trong 15 năm qua, cũng là lĩnh vực được đầu tư lớn nhất về kinh phí và chất xám. Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp thiết, bằng các biện pháp chống dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ xâm thực, gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hóa…; nhờ vậy mà trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt xảy ra liên tiếp, các di tích vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi thọ; nhiều công trình trọng điểm, tiêu biểu đã được trùng tu, phục hồi; cơ sở hạ tầng các khu di tích được tu bổ hoàn nguyên. Giai đoạn 1996 - 2010, tổng kinh phí tu bổ trong 15 năm trên lĩnh vực trùng tu và tôn tạo di tích Cố đô Huế là: 586.312.000.000 đồng (đạt 81,4% kế hoạch dự kiến). Giai đoạn 2011 - 2016, ngân sách tu bổ đạt xấp xỉ 600 tỷ đồng; trong đó Ngân sách Trung ương là 270 tỷ đồng; Ngân sách địa phương và tài trợ quốc tế là 330 tỷ đồng.

Cũng chính qua thực tiễn của công cuộc bảo tồn, tôn tạo di tích Huế mà đội ngũ cán bộ, kỹ thuật viên của Trung tâm đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu và phong phú, đặc biệt đã nắm vững cả hai mặt cốt yếu của phương pháp trùng tu khoa học: phương pháp luận khoa học và kỹ năng thực hiện. Vì vậy, các hoạt động trùng tu đã đem lại những hiệu quả tích cực, đảm bảo các nguyên tắc khoa học về bảo tồn của quốc gia và thỏa mãn các điều luật của Hiến chương, Công ước quốc tế mà Chính phủ ta đã cam kết; được các nhà khoa học trong nước và quốc tế đánh giá cao; đồng thời đem lại những hiệu quả tích cực về mặt kinh tế và xã hội; góp phần quan trọng trong việc thu hút du khách đến Huế, tăng các nguồn doanh thu du lịch và dịch vụ, tạo nên sự quan tâm đặc biệt của các tầng lớp xã hội đối với di sản văn hóa truyền thống…

Tam tấu trống kèn - Nhã nhạc, Âm nhạc cung đình Việt Nam biểu diễn tại UNESCO Paris, Pháp nhân dịp trao bằng công nhận Di sản Phi vật thể Đại diện của nhân loại.

Về công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể: Các di sản văn hóa phi vật thể của Huế hết sức phong phú và đa dạng. Tính từ năm 1996 đến nay, trên lĩnh vực này, Trung tâm đã tổ chức hàng chục công trình nghiên cứu khoa học, tổ chức biên soạn và xuất bản nhiều đầu sách và tư liệu, tổ chức nhiều đợt đào tạo nhân lực... Nhiều hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế về chủ đề nghiên cứu, bảo tồn các tài sản văn hóa phi vật thể được tổ chức. Nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật về di sản văn hóa Huế và công cuộc bảo tồn đoạt giải thưởng cao do Trung ương và địa phương trao tặng. Sưu tầm, nghiên cứu ứng dụng và bảo tồn được nhiều tác phẩm âm nhạc Cung đình quan trọng. Sưu tầm, nghiên cứu và dàn dựng thành công các điệu múa Cung đình tiêu biểu, các vở tuồng Cung đình cổ, các trích đoạn tuồng phục vụ cho lễ hội và giao lưu văn hóa - nghệ thuật…

Chính nhờ những nỗ lực trên, vào tháng 11/2003, UNESCO đã chính thức công nhận Nhã nhạc Cung đình Huế là Kiệt tác Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (nay là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện nhân loại). Đây là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm vóc và sự phong phú, toàn diện của di sản văn hóa Huế trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể.


Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế được công nhận là Di sản Tư liệu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ngay tại quê hương Thừa Thiên Huế.

Về công tácbảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu: Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu gắn liền với công tác nghiên cứu khoa học và trưng bày triển lãm của Trung tâm đã gặt hái được nhiều thành công nhất định. Thành công quan trọng nhất là Hồ sơ “Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế” đã được bảo vệ thành công ngay tại Hội nghị toàn thể của Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do UNESCO tổ chức tại thành phố Huế vào tháng 5/2016.

Công tác xây dựng nội dung phần mềm lưu trữ, số hóa tài liệu được chú trọng đặc biệt để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về công nghệ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Các hồ sơ xây dựng đã đạt được nhiều giải thưởng của các cuộc thi sáng tạo khoa học - công nghệ tại địa phương. Các đề tài: “Ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý lăng Thiệu Trị”, “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lầu Tàng Thơ”… đã đạt “Giải thưởng sáng tạo khoa học - công nghệ toàn quốc”.

Các cuộc trưng bày, triển lãm trên địa bàn di tích Huế nhằm phục vụ du khách và quảng bá giá trị di sản văn hóa Huế cũng được chủ động tổ chức một cách rộng rãi đối với cộng đồng cùng với việc xây dựng đề cương chỉnh lý trưng bày và trưng bày mới tại các điểm di tích để phục vụ ngày càng tốt hơn cho du khách khi đến thăm quan di tích Huế. Tổ chức thực hiện việc kêu gọi các cá nhân, tổ chức hiến tặng hiện vật, tư liệu quý liên quan đến triều Nguyễn, cùng với đó là việc thực hiện các đề tài liên quan đến công tác bảo quản, trưng bày hiện vật, thực hiện chương trình xây dựng cơ sở dữ liệu 3D các bảo vật Quốc gia… Phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước thuộc Bộ Nội vụ để bảo tồn tốt và phát huy giá trị của Mộc bản triều Nguyễn và Châu bản triều Nguyễn.

Chương trình biểu diễn Nhã nhạc hằng ngày phục vụ du khách tại Nhà hát Duyệt Thị Đường, Đại Nội - Huế.

Về công tác bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di sản: Nằm trong lòng của “một kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị”, phần lớn các di tích của Huế đều là những kiến trúc nghệ thuật được bố trí hài hòa với thiên nhiên trong những không gian rất rộng lớn. Cũng chính vì thế mà việc bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di tích gặp không ít khó khăn, bên cạnh đó số lượng dân cư sống trong các khu vực bảo vệ di tích rất lớn, chiếm xấp xỉ 1/2 dân số thành phố. Vì vậy, mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ di tích đều có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của người dân và nhu cầu phát triển.

Trong những năm qua, phần lớn các di tích chính đã được đầu tư tu bổ và tôn tạo hệ thống sân vườn, cảnh quan và trồng cây bổ sung ở các khu vực đệm, góp phần thu hẹp không gian hoang phế, từng bước trả lại các giá trị cảnh quan vốn có của Cố đô, mang lại sinh khí cho di tích, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.

Về lĩnh vực hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực: Đây cũng là một trong những lĩnh vực hoạt động đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trung tâm đã hợp tác với hơn 25 tổ chức quốc tế, hàng chục các viện, trường đại học, ban, ngành trong nước để tiến hành các hoạt động nghiên cứu bảo tồn di sản cả trên lĩnh vực văn hóa vật thể, phi vật thể và cảnh quan môi trường. Với các tổ chức quốc tế, Huế đã có sự hợp tác với UNESCO, Nhật Bản (Quỹ Toyota, Quỹ Japan Foundation, trường đại học Nữ Sowa, Đại học Nihon, Đại học Waseda...), các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của Ba Lan, Canada, Pháp, Anh, Mỹ, Đức, Thái Lan, Bỉ, Hàn Quốc, Hà Lan… để thực hiện hàng chục dự án trùng tu, nghiên cứu bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực hết sức có ý nghĩa. Chính qua các dự án hợp tác nói trên, đội ngũ cán bộ, chuyên viên, nghệ sĩ của Trung tâm đã được đào tạo, trau dồi kiến thức thường xuyên và không ngừng trưởng thành và  là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động bảo tồn di sản trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Nhiều người trong số đó đã trở thành những cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn chủ chốt của các ban, ngành.

Nhật hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko thăm Đại Nội Huế tháng 3 năm 2017.

Về công tác khai thác và phát huy giá trị các di sản: Đây cũng là lĩnh vực thể hiện kết quả trực tiếp của công tác bảo tồn di sản. Nhờ những thành tựu của công tác bảo tồn mà di sản văn hóa Huế đã được quảng bá hình ảnh rộng rãi trên toàn thế giới, tạo nên sức hút to lớn của Huế đối với du khách thập phương và góp phần làm cho ngành du lịch - dịch vụ của Thừa Thiên Huế có những bước phát triển nhanh chóng, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Riêng tại khu di tích Huế, doanh thu trực tiếp từ năm 1996 đến năm 2016 đã đạt hơn 1.536 tỷ đồng; doanh thu từ hoạt động dịch vụ đạt hơn 100 tỷ đồng, và hiện nay tốc độ doanh thu đang tăng nhanh, ổn định. Chính nguồn thu này đã góp phần rất quan trọng trong việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản và cải thiện đời sống của những người làm công tác bảo tồn… Bên cạnh đó, việc khai thác và phát huy giá trị di sản cũng đã tạo điều kiện cho công tác phục hồi các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống. Các nghề đúc đồng, sơn thếp, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, làm diều Huế, may áo dài, thêu, chằm nón lá, làm kẹo mè xững, tôm chua, nghệ thuật ẩm thực, ca Huế… đã có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ để đáp ứng các nhu cầu của ngành du lịch.

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đơn vị được giao nhiệm vụ bảo tồn các di sản văn hóa triều Nguyễn vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Bước vào thời kỳ mới, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng với những quyết tâm, nỗ lực nhằm phấn đấu thực hiện thành công Quyết định 818/QĐ-TTg của Chính phủ, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng “Huân chương Độc lập hạng Ba”.

Từ những thành tựu về bảo tồn và phát triển văn hóa - du lịch, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có những sự điều chỉnh kịp thời trong cơ cấu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chuyển từ cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp; trong đó xác định phát triển các ngành du lịch - dịch vụ có tính quyết định hàng đầu. Để phát huy hơn nữa hiệu quả của việc phát triển hoạt động dịch vụ ngay trong địa bàn khu di sản Huế, ngày 05/12/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt đề án tổng thể quy hoạch và phát triển hoạt động dịch vụ đến năm 2020 do Trung tâm xây dựng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để Trung tâm đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, thực hiện thương hiệu hành động của ngành du lịch - dịch vụ tỉnh nhà “Một điểm đến - 5 Di sản”.

25 năm qua với rất nhiều thử thách, nhưng cũng là chặng đường gắn liền với những thành tựu to lớn của sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế. Trong chặng đường trước mắt và tương lai lâu dài, di sản văn hóa Huế vẫn sẽ mãi là nền tảng, là hạt nhân, là một trong những động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của Thừa Thiên Huế.

                      TS. Phan Thanh Hải

Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế