In trang
Một thế hệ nhà văn trưởng thành từ cách mạng và kháng chiến . (Ảnh tư liệu chụp tại Chiến khu Việt Bắc)

Những mùa vàng sinh sôi
Cập nhật lúc : 09:46 02/05/2020

Không chỉ là ánh sáng soi đường cho quốc dân đi, nói đến Đảng và Bác Hồ còn là nói đến sự khai sinh thời kỳ mang tính bước ngoặt của nền văn học Việt Nam. Ánh sáng từ thế kỷ XX ấy đã mở ra những mùa vàng rực rỡ, giúp văn học thoát khỏi sự trì trệ, theo kịp phương Tây, và bước vào guồng quay của dân tộc, dân chủ, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của mình.

“Cuộc đổi đời vĩ đại”

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930 - 3.2.2020), dường như những đúc kết, nhìn lại các dấu mốc lịch sử càng thêm ý nghĩa. Với GS. Phong Lê, nguyên Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, đó cũng chính là cái tứ để suy ngẫm, gợi mở trong tọa đàm với chủ đề “Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp văn hóa - văn học nghệ thuật Việt Nam thế kỷ XX” diễn ra sáng 3.2 mà ông làm diễn giả. Vì nhìn lại một thế kỷ thăng trầm ấy, chúng ta được thấy hào quang rực rỡ của Đảng, của Bác Hồ, thấy được ánh hào quang tạo nên mùa màng mà từ đó sinh sôi bao “hạt vàng” ghi dấu ấn cho nền văn học Việt Nam cách mạng - hiện đại, thay cho nền văn học trung đại kéo dài hơn 1.000 năm.

Nói về cách mạng Việt Nam thì khởi phát là sự thành lập Đảng Cộng sản, nhưng trước đó, theo GS. Phong Lê, chính là “khởi điểm của khởi điểm”. Ấy là hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc năm 1911 và năm 1920 khi Người tìm ra con đường cứu nước trong “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin tại Paris. Dấn thân vào con đường cách mạng cũng là lúc bắt đầu sự nghiệp viết của Nguyễn Ái Quốc, từ Bản yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles (1919), báo La Paria (Người cùng khổ, 1921 - 1924), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927)... Sau mốc 1930 là Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với các mốc lịch sử ấy là sự ra đời của nền văn học cách mạng - hiện đại Việt Nam. Mùa gặt đầu tiên của nó gắn với thời điểm trước và sau năm 1945, chứa đựng nội dung yêu nước và chủ nghĩa nhân văn, khẳng định quyền sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc cho hơn 25 triệu người dân Việt.

Gắn với mùa gặt đầu tiên đó là những tên tuổi làm nên nền văn học hiện đại Việt Nam, trong đó nhiều người trở thành nhà văn, nhà thơ cách mạng. Dưới ánh sáng của Đảng, Hồ Chí Minh, họ đưa văn học vào quỹ đạo của một nền văn học mới, dốc sức cho sự nghiệp chung của dân tộc. Sự nghiệp văn học ấy lấy quyền sống của con người làm tiêu điểm, ghi dấu đầu tiên là Hồ Chí Minh, và những tên tuổi lớn như Tố Hữu (với “Từ ấy”), Nguyên Hồng (“Cửa biển”), Nguyễn Đình Thi (“Vỡ bờ”)... và hàng loạt nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao... Như GS. Phong Lê nói, “đó là một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc và sự nghiệp văn hóa - văn học nghệ thuật Việt Nam”. Để rồi, 30 năm sau đó (1945 - 1975) là sự phát triển lên đến đỉnh cao chủ nghĩa yêu nước - chủ nghĩa anh hùng, làm nên một trong những nền văn học tiên phong chống đế quốc của thế giới thế kỷ XX.

Phản ánh và dự báo

30 năm một nền văn học chống đế quốc với nội dung gắn kết chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng, để lại nhiều tên tuổi tác giả, tác phẩm xuất hiện liên tục qua các thời điểm 1945, 1954, 1960, 1975... Trong bức tranh ấy, dân tộc đi từ can qua này đến sóng gió khác, nhưng xuyên suốt là tinh thần anh dũng bất khuất đã được văn học phản chiếu một cách sinh động. Sau lời hiệu triệu non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc lên đường, thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, năm 1966, những thế hệ nhà văn lớn cũng “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, cùng “người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ làm nên những tên tuổi người lính cầm bút: Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Lê Anh Xuân, Nguyễn Trung Thành, Quang Dũng...

Theo GS. Phong Lê, từ năm 1960 - 1975 và sau 1975 - 1986, văn học Việt Nam còn là sự hiện thân của sự kết hợp hai chủ đề Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội, là cuộc đi tìm một mô hình phát triển của đất nước sao cho phù hợp với quy luật và hợp lòng dân. Đó là con đường sau “sửa sai” trong Cải cách ruộng đất (1956) đến “cởi trói” trong Đổi mới (1986), với hai khẩu hiệu “Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Ánh sáng của Đảng đã đem đến con đường mới cho văn học Việt Nam, để rồi văn học lại làm nhiệm vụ phản ánh và dự báo “để nói cho Đảng biết”, trên cơ sở những trải nghiệm lịch sử và trách nhiệm công dân của nhà văn. Ở đó, những tên tuổi như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, sau này còn Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường... đã chạm đến những đề tài, đi sâu vào ngóc ngách của đời sống.

Bước vào kỷ nguyên hội nhập, trang vàng của lịch sử văn học đã khép lại với những nhiệm vụ đã làm tròn, với những đỉnh cao đã xây đắp và di sản đồ sộ để lại cho thế hệ sau. Bóng dáng của nền văn học ấy, dưới sự khai sáng của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh như vẫn còn đó, trong các trang viết, câu chuyện cuộc đời người cầm bút. “Chúng tôi chỉ là những thư ký ghi lại sự kiện lịch sử để làm tư liệu cho con cháu”, nhắc lại lời của nhiều nhà văn thế kỷ XX, GS. Phong Lê cho rằng, đó là cái khiêm nhường của một thế hệ, dưới sự dẫn đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam để làm nên dấu ấn thời đại. “Văn học nghệ thuật thế kỷ XX đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình. Một nền văn học mới đang hình thành và phát triển. Kế thừa truyền thống, tiếp thêm sinh lực, bầu không khí của thời đại để định hình và kết tinh, làm được như vậy chính là giá trị sinh sôi nảy nở của nền văn học nghệ thuật nước nhà”. 

 

daibieunhandan.vn