In trang

Để Làng Văn hóa 3.200 tỷ trở thành một “không gian sống”
Cập nhật lúc : 16:36 10/05/2014

Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam chỉ thực sự là một “không gian sống” vào những dịp tổ chức sự kiện, khi bà con các dân tộc từ mọi miền Tổ quốc về đây, còn sau đó, làng lại vắng lặng, đìu hiu.

Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam khai trương năm 2010, tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội với diện tích 1.544ha, mang nhiều ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội, hướng đến một “mái nhà chung” của 54 dân tộc Việt Nam. Nhiều người dân và khách du lịch đến đây với mong muốn hiểu hơn về sự phong phú và đa dạng văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc nước ta.

 

Tiếc là, làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam chỉ thực sự là một “không gian sống” vào những dịp tổ chức sự kiện, khi bà con các dân tộc từ mọi miền Tổ quốc về đây, còn sau đó, làng lại vắng lặng, đìu hiu. Qua 4 năm đi vào sử dụng và khai thác đến nay đã có 1 số công trình, hiện vật xuống cấp.

 

Khó khăn trong công tác duy tu, bảo dưỡng 

Có mặt tại khu vực nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở Làng văn hóa - du lịch các dân tộc Việt Nam, nơi được cho là bị xuống cấp nghiêm trọng, hướng dẫn viên Nguyễn Thị Bình tâm sự: “Đây là khu nhà mồ đã được chính đồng bào Rai Giai làm lễ bỏ mả từ lúc khai trương. Mỗi công trình văn hóa phải có hồn cốt gần gũi với đời sống văn hóa của người dân bản xứ. Nếu ai đã từng chứng kiến lễ bỏ mả của đồng bào Gia Rai thì sẽ hiểu về tập tục này”. Theo chị Bình, ở các địa phương, khu nhà mồ cùng các tượng gỗ sẽ hư hỏng theo thời gian vì phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của mưa nắng mà không có bất cứ sự bảo quản nào và cũng không ai quan tâm đến những nhà mồ này nữa sau lễ bỏ mả.

 

Khu nhà mồ của người Gia Rai

 

“Ở đây cũng vậy thôi, vì những khu nhà mồ này phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu khắc nghiệt của miền Bắc. Chúng tôi không thể bảo quản những vật dụng, tượng gỗ... trong tủ kính hay đưa vào nhà Rông được vì phong tục tập quán của người dân địa phương không cho phép. Hơn nữa, trên thực tế thì  những tượng gỗ hay đồ vật bị hư hại theo thời gian là phù hợp với thực tế và sinh động với những du khách thực sự am hiểu về văn hóa”, chị Bình khẳng định.

 

Bà Toán Thị Hương, Chánh văn phòng BQL làng văn hóa – du lịch các dân tộc Việt Nam cho biết, hằng năm Làng đều xây dựng phương án duy tu, bảo dưỡng làm cơ sở thực hiện. Với nguồn kinh phí Nhà nước cấp, công tác duy tu, bảo dưỡng các công trình nhà dân tộc xuống cấp trong thời gian qua đã được thực hiện theo đúng quy trình, kế hoạch. Tuy nhiên, đây cũng là một khó khăn, trăn trở lớn của BQL dự án.

 

 

Các công trình kiến trúc của 54 dân tộc Việt Nam tại đây phần lớn được thi công bằng các vật liệu tranh, tre, nứa, lá...

 

Theo bà Hương, tác động do thời gian, khí hậu, thời tiết ảnh hưởng rất lớn đối với độ bền của các công trình. Hơn thế, các công trình kiến trúc của 54 dân tộc Việt Nam tại đây phần lớn được thi công bằng các vật liệu tranh, tre, nứa, lá..., theo đúng thiết kế và đặc trưng nhà ở của từng địa phương nên không tránh khỏi việc xuống cấp nhanh hơn các công trình kiên cố khác.

 

“Để duy tu bảo dưỡng những công trình nhà dân tộc như vậy không thể lập tức móc tiền túi ra để làm ngay, mà phải có các quy trình theo quy định của pháp luật, quy định về kỹ thuật, về nguyên vật liệu. Chúng tôi rất mong muốn khi công trình hỏng là sửa được ngay như đồng bào ở căn nhà của mình tại địa phương, hỏng, có thể thay thế, bổ sung, sửa đổi. Nhưng làng văn hóa, đội ngũ cán bộ công nhân viên của BQL phải thường xuyên đi rà soát, kiểm tra. Chỗ nào hỏng hóc nhỏ, có thể bổ sung ngay. Còn cái gì lớn phải có kế hoạch, theo quy trình, và phụ thuộc vào nguồn kinh phí”, bà Hương khẳng định.

 

 

 

Để duy tu bảo dưỡng những công trình nhà dân tộc như vậy phải có các quy trình theo quy định của pháp luật, quy định về kỹ thuật, về nguyên vật liệu

 

 

Bà Hương cũng cho biết thêm, đối với hai ngôi nhà của dân tộc Chứt, dân tộc Cống bị hỏa hoạn do chập cháy từ tháng 4/2014 BQL Làng đã lên kế hoạch phục hồi nguyên trạng và cần có sự tư vấn của các nghệ nhân dân tộc nhằm đảm bảo tính chính xác, chân thực.

 

Vừa xây dựng, vừa khai thác cục bộ

Về quá trình xây dựng, sử dụng và bảo quản các công trình, bà Toán Thị Hương cũng cho biết: Làng văn hóa hoàn toàn được xây mới. Nhưng trong quá trình xây dựng, thực hiện theo từng bước. Đầu tiên là khảo sát điền dã, xin ý kiến của các nhà khoa học, các già làng, trưởng bản để lựa chọn công trình văn hóa phải tiêu biểu, đặc trưng và tái hiện nguyên bản theo tỉ lệ 1:1. Đâu đó ở các địa phương họ không còn nhà dân tộc gốc, đối với làng văn hóa phải bảo tồn, giữ lại các kiến trúc nhà dân tộc cổ, truyền thống, để không những giới thiệu cho du khách trong nước và quốc tế khi tham quan, mà còn giữ nếp nhà truyền thống để cho con cháu cộng đồng dân tộc đó họ được biết đó là nếp nhà truyền thống của cộng đồng, dân tộc mình. Đồng bào tổ chức sinh hoạt, tái hiện các nét đời sống văn hóa phải gắn vào kiến trúc nhà ở để cảm nhận đầy đủ không gian cảnh quan văn hóa. Trong quá trình chuẩn bị đầu tư xây dựng, đều phải hướng tới điều đấy

 

Nhà Rông là nơi sinh hoạt cộng đồng của một số dân tộc

 

Ngày 19/9/2010, làng văn hóa đã khai trương mở cổng làng, và đi vào giai đoạn khai thác cục bộ khu các làng dân tộc. Bởi đây là khu được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách, để Nhà nước, Chính phủ làm công tác dân tộc, phục vụ để đồng bào dân tộc có nơi hội tụ về để giới thiệu và tôn vinh bản sắc văn hóa của mình.

 

Bà Hương cho biết, hiện tại, con số 3.200 tỷ ngân sách Nhà nước đầu tư xây dựng mới cân đối được khoảng 30%, để hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật cùng khu nhà các dân tộc. Ban quản lý (BQL) đã và đang kêu gọi đầu tư triển khai xây dựng các dự án thành phần còn lại như khu di sản văn hóa thế giới, khu dịch vụ du lịch tổng hợp, khu công viên bến thuyền...

 

Theo bà Hương, để làng văn hóa – du lịch các dân tộc Việt Nam trở thành một “không gian sống”, ban quản lý đã vừa xây dựng, vừa khai thác cục bộ - “cũng giống như sửa nhà vậy, vừa làm, vừa ở, tuy còn bề bộn, cảnh quan chung không thể đẹp nõn nà như một khu du lịch đã hoàn thiện nhưng một số công trình khai thác được vẫn phục vụ du khách”, bà Hương nói.

 

 

Tại các điểm nhà dân tộc luôn có hướng dẫn viên trực để thuyết minh cho du khách

 

Ngoài các hoạt động mang tính sự kiện, điểm nhấn, hàng năm làng văn hóa thường xuyên tổ chức đón du khách, thuyết minh, hướng dẫn, giới thiệu du khách vào tham quan khu các làng dân tộc. Trong khu các làng dân tộc hiện nay đã có không gian văn hóa tiêu biểu của đủ 54 dân tộc. Đặc biệt, làng đã hoàn thiện và khánh thành 2 công trình có tầm vóc lớn là quần thể tháp Chăm và chùa Khmer. Mỗi một không gian văn hóa, có một đội ngũ thuyết minh viên để phục vụ đón tiếp và giới thiệu với du khách. Du khách lên tham quan làng văn hóa có thể dành thời gian tham quan khác nhau, 1 giờ, 2 giờ, cả ngày, 2 ngày… có 3 tuyến phục vụ du khách tham quan theo giờ để cảm nhận về những nét văn hóa tiêu biểu, đặc trưng của một số cộng đồng.

 

 

2 công trình có tầm vóc lớn là quần thể tháp Chăm. Ảnh: Hà Tuấn

 

 

 và chùa Khmer được xây dựng theo tỉ lệ 1:1. Ảnh: Hà Tuấn

 

Hướng dẫn viên Nguyễn Thị Bình chia sẻ: “Là một người trực tiếp làm việc, đưa khách tham quan, chúng tôi biết được cảm giác của mỗi đoàn khách khi được nghe thuyết minh về văn hóa cộng đồng, họ rất thích, và không phải họ không chỉ đến một lần mà vẫn quay lại.  Không chỉ riêng làng văn hóa, mà đặc trưng của du lịch ViệtNamlà du lịch mùa vụ, riêng 3 tháng mùa hè, ít đoàn du lịch núi mà chủ yếu đi biển. Trong khi đó, 3 tháng mùa hè chúng tôi vẫn đón khách bình thường. Lượng khách tập trung vào thứ 7, Chủ nhật. Số lượng khách tăng đều: Tính trong 9 tháng đầu năm đến nay, lượng khách vào tham quan làng là 198.270 lượt. Năm 2011 tổng lượt khách là 110.000 lượt, năm 2013 là 250.000 lượt”.

 

 

Đồng bào dân tộc Chăm đến từ tỉnh Ninh Thuận đã tái hiện lễ cúng thần Sóng biển cầu mong sự an lành đến với những ngư dân đang bám biển tại ngày hội “Đại gia đình các dân tộc Việt Nam với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” ngày 28/6 vừa qua

 

Đầu tư xây dựng, đối với lộ trình Chính phủ quy định, năm 2013 hoàn thành toàn bộ làng văn hóa, nhưng muốn hoàn thành toàn bộ khu các làng dân tộc, thì phải đủ vốn vì được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nhưng trong quá trình được vốn ngân sách hàng năm, nguồn vốn không bao giờ đủ, làng văn hóa căn cứ vào đó điều chỉnh các hạng mục đầu tư vào khu các làng dân tộc là sẽ kêu gọi xã hội hóa một số hạng mục để hoàn thiện khu các làng dân tộc nhưng giảm tải được áp lực của ngân sách./.

 

Dự án "Làng văn hóa - du lịch các dân tộc ViệtNam" được Chính phủ phê duyệt từ năm 1997 với tổng diện tích xây dựng 1.544 ha (606 ha mặt đất, 939 ha mặt nước), gồm 12 dự án thành phần. Dự kiến đến năm 2015, "Làng văn hóa- du lịch các dân tộc ViệtNam" sẽ hoàn tất và trở thành trung tâm hoạt động văn hóa mang tính quốc gia. Tuy nhiên, bà Toán Thị Hương, Chánh văn phòng cho biết, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt kế hoạch kéo dài dự án đến năm 2019 do vốn không đáp ứng để tiết kiệm, đồng thời tiếp tục tổ chức đầu tư kêu gọi xã hội hóa. Do vậy, dự án làng văn hóa sẽ vẫn khai thác cục bộ, hoàn thiện đến đâu khai thác đến đó.

 

(VOV)