In trang

Cần viết tiếp “câu chuyện phán quyết” bằng chính trị và ngoại giao
Cập nhật lúc : 09:04 07/09/2016

Đó là khẳng định của TS. TRẦN CÔNG TRỤC, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, về những bước đi của các nước hậu phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) về vụ kiện của Philippines hôm 12.7 vừa qua. Theo ông, phán quyết đã đặt ra một tiền đề pháp lý mạnh mẽ và vững chắc nhưng để giải quyết dứt điểm những vấn đề ở Biển Đông, cần sự vào cuộc của chính trị và ngoại giao.

Sau chiến thắng của luật pháp quốc tế...


- Trong số 5 nội dung Tòa Trọng tài tuyên bố có thẩm quyền, phán quyết nào có ý nghĩa nhất? Trước đó, dư luận có kỳ vọng về việc PCA sẽ ra phán quyết có lợi cho Philippines về những điểm này không, thưa ông?


- Theo Thông cáo báo chí của PCA ngày 12.7 vừa qua, Phán quyết của Hội đồng Trọng tài bao gồm 5 nội dung: quyền lịch sử và đường 9 đoạn; quy chế của các cấu trúc; tính hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc; vấn đề gây hại cho môi trường biển; làm trầm trọng thêm tranh chấp. Trong số đó, nội dung 1 và 2 liên quan đến yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc và hiệu lực pháp lý của các thực thể ở Trường Sa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

 

Về nội dung thứ nhất, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Tòa cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.

 

Như vậy có thể thấy, Tòa không chỉ bác bỏ yêu sách đường 9 đoạn phi lý, mơ hồ, vô căn cứ của Trung Quốc ở Biển Đông như dư luận mong đợi, mà quan trọng hơn nữa Tòa đã kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với “tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn”. Nói cách khác, Tòa đã làm rất rõ về “quyền lịch sử” chứ không phải “chủ quyền lịch sử” với các thực thể đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm bên trong đường 9 đoạn” như cách giải thích của Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một là thể hiện rõ tính đúng đắn và hợp pháp của phán quyết vì phán quyết này là việc ứng dụng, giải thích UNCLOS 1982 chứ không liên quan đến “chủ quyền/lãnh thổ” và phân định biển, nên Trung Quốc không thể bác bỏ; Hai là bác bỏ “quyền lịch sử” với các tài nguyên biển bên trong đường 9 đoạn, hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

 

Nhóm nội dung thứ 2 trong phán quyết của Tòa cũng là điều trên cả mong đợi. Trước khi có phán quyết, việc Trung Quốc kiên quyết không làm rõ đường 9 đoạn là đường gì, vùng biển bên trong đường 9 đoạn gọi là gì và Tòa phải có trách nhiệm làm rõ nó, nên một số học giả còn hoài nghi khả năng có phán quyết về đường 9 đoạn. Nhưng kết quả phán quyết là câu trả lời không thể thuyết phục hơn, đầy đủ hơn.

 

Ở nhóm nội dung thứ 2 này của phán quyết, cá nhân tôi cho rằng cần đặc biệt lưu ý 2 điểm: Một là: không một cấu trúc nào Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế. Đây là tham chiếu rất cụ thể cho chúng ta soi lại vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của ViệtNam. Trung Quốc khi đó lập luận rằng, vị trí cắm giàn khoan 981 nằm trong “vùng biển Hoàng Sa”. Đây là khái niệm chung chung, không phải khái niệm pháp lý. Nhưng có thể hiểu rằng, Trung Quốc muốn ám chỉ “vùng đặc quyền kinh tế” 200 hải lý của một hoặc một vài thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa, hoặc vùng đặc quyền kinh tế của cả quần đảo Hoàng Sa.

 

Điểm cần lưu ý thứ hai, là việc Tòa khẳng định: Các đảo ở Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất. Nói cách khác, Trường Sa không thể có đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải, và do đó không thể có lãnh hải chung, vùng đặc quyền kinh tế chung cho cả quần đảo như với chế độ của “quốc gia quần đảo” quy định tại Điều 47, UNCLOS 1982. Năm 1996 khi phê chuẩn UNCLOS 1982, Trung Quốc đã ra tuyên bố về đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải cho Hoàng Sa. Người viết cho rằng đây là một sự giải thích sai, áp dụng sai Điều 47, UNCLOS 1982. Nội dung phán quyết này của Tòa về Trường Sa cho ta một tham chiếu và minh chứng cụ thể cho nhận định này.

 

- Như ông vừa khẳng định, việc Tòa bác bỏ “quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với đường 9 đoạn mang ý nghĩa quan trọng. Vậy điều này có trở thành “án lệ” đối với các nước khác hay không, hay nói cách khác, có mở ra một hướng đi khác cho các nước trong việc chứng minh chủ quyền đó là không nên dựa trên các tài liệu lịch sử?


- Nội dung quan trọng nhất là Tòa đã tuyên bác bỏ “quyền lịch sử đối với nguồn tài nhiên” trong phạm vi đường 9 đoạn. Cần lưu ý: Tòa không sử dụng cụm từ “chủ quyền lịch sử” mà dụng cụm từ “quyền lịch sử đối với tài nguyên” là một sự cân nhắc chặt chẽ về khía cạnh pháp lý. Nếu sử dụng cụm từ “chủ quyền lịch sử” thì sẽ được coi như là nội dung không thuộc thẩm quyền phán xét của Tòa, vì đó chính là nội dung tranh chấp chủ quyền, một nội dung mà Trung Quốc đã nêu trong lập luận để bác bỏ thẩm quyền của Tòa, cũng chính là cái cớ để Trung Quốc không tham gia vụ kiện và không thừa nhận phán quyết. Việc Tòa sử dụng cụm từ “quyền lịch sử đối với tài nguyên”, là một thuật ngữ hoàn toàn thích hợp; phản ánh đầy đủ nội dung giải thích và áp dụng quy định của UNCLOS 1982 trong phạm vi biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, một nội đung thuộc thẩm quyền phán xét của Tòa. Trung Quốc không thể khai thác thuật ngữ pháp lý này để tiếp tục bảo vệ cho quan điểm sai trái của họ rằng:Philippinesđã kiện về tranh chấp chủ quyền và phân định biển. Đó là những nội dung nằm ngoài thẩm quyển của PCA theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982. Cần phải đặc biệt lưu ý rằng, ở đây Tòa không xem xét vấn đề “chủ quyền”.

 

... là lúc ngoại giao vào cuộc


- Trong phán quyết, phần về dự báo hành vi tương lai của các bên, Tòa nêu rõ: “Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định phán quyết… sẽ được các bên trong tranh chấp tuân thủ. Vì vậy, Tòa thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào nữa”. Nhưng Trung Quốc cho đến nay vẫn bác bỏ phán quyết? Các bên liên quan đang phải đối mặt với những khó khăn nào để tiếp tục thúc đẩy giải quyết vấn đề Biển Đông?


- Hiện nay, dư luận đang đặt câu hỏi: Trước việc Trung Quốc một mực bác bỏ phán quyết của Tòa, các bên liên quan cần có những bước đi nào tiếp theo như thế nào? Để có câu trả lời thích hợp cho câu hỏi này, có lẽ trước hết chúng ta nên cùng nhau xem xét những thuận lợi và khó khăn mà PCA gặp phải sau khi phán quyết được công bố:

 

Trước hết, Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982, là một Hội đồng Trọng tài được PCA lập ra để thụ lý, xét xử một vụ kiện cụ thể thuộc thẩm quyền của mình nhưng phán quyết của nó không mạnh bằng phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Khác với ICJ, Tòa Trọng tài này không được hưởng quy chế nêu trong Điều 94 Hiến chương Liên Hợp Quốc: “Nếu bất kỳ bên nào trong một vụ kiện không thực hiện nghĩa vụ sau phán quyết của Tòa, bên kia có thể dựa vào Hội đồng Bảo an LHQ, nếu xét thấy cần thiết, có thể kiến nghị lên HĐBA về biện pháp thi hành án”, và như vậy PCA không có công cụ thực thi và hệ thống chế tài để có thể buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết. Đây sẽ là kẽ hở để Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế. Thứ hai, PCA cũng không có thẩm quyền xét xử những tranh chấp liên quan tới chủ quyền đối với cá thực thể như Scarborough hay các tranh chấp biên giới trên biển. Thứ ba, không phán quyết nào của PCA có thể giải quyết được những vấn đề địa - chính trị lớn liên quan đến những mâu thuẫn lợi ích ở Biển Đông.

 

Điều đó cho thấy, dù phán quyết của PCA có đóng góp tích cực đáng kể nhưng thực tế là luật pháp không thể giải quyết rốt ráo xung đột Biển Đông. Phán quyết vừa qua cho thấy giới hạn của luật pháp trong việc giải quyết các tranh chấp trên thực tiễn cũng như tầm quan trọng của việc hướng tới các cuộc đối thoại chính trị. Nói cách khác, chúng ta cần coi phán quyết pháp lý là tiền đề quan trọng để khởi động tiến trình chính trị.

 

- Vậy theo ông, các nước liên quan nên triển khai các bước đi tiếp theo như thế nào?


Từ nhận thức trên, tôi cho rằng, có một số lựa chọn mà các bên nên thúc đẩy vào thời điểm hậu phán quyết.

 

Trước hết, các bên bị xâm phạm bởi yêu sách phi lý của Trung Quốc cần tiếp tục mạnh mẽ ủng hộ phán quyết của Tòa, coi đây là một quyết định ràng buộc về mặt pháp lý để từ đó triển khai mặt trận đấu tranh pháp lý mạnh mẽ, thiết thực, cụ thể hơn. Muốn làm được điều này thì cần phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung của Phán quyết này, coi đó là một tiền lệ có giá trị, một bài học kinh nghiệm quý giá góp phần đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan.

 

Các nước Đông Nam Á có liên quan cần coi việc áp dụng và giải thích UNCLOS, bảo vệ UNCLOS như một sợi chỉ đỏ vững chắc kết nối các bên liên quan trực tiếp hay gián tiếp bị ảnh hưởng bởi yêu sách về đường 9 đoạn phi lý của Trung Quốc. Đặc biệt, ASEAN có thể khai thác nội dung Phán quyết này để phục vụ cho việc xây dựng và ký kết được Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông mà cho đến nay vẫn bị đường 9 đoạn ngáng trở khi đề cập đến phạm vi điều chỉnh của Bộ quy tắc đầy kỳ vọng này.

 

Trong ngắn hạn, các bên cần cảnh giác cao độ trước những động thái của Trung Quốc có thể làm leo thang căng thẳng. Các bên cũng cần phối hợp với nhau để thảo luận về những khả năng ngoại giao trong thời gian tới. Không chỉPhilippinesmà các nước có tuyên bố chủ quyền khác cũng có thể tận dụng phán quyết để thúc đẩy tiến trình đối thoại chính trị.

 

Chúng ta hoan nghênh và đánh giá cao phán quyết của Tòa Trọng tài không phải vì phán quyết này có lợi cho riêng một quốc gia nào, cũng không phải vì lợi dụng nó phuc vụ cho động cơ chính trị nhằm thỏa mãn cảm xúc thắng thua mà cái chính là cần phải xem đây là thằng lợi chung của luật pháp, của công lý. Các nước liên quan phải có trách nhiệm sử dụng nó như là một tiền đề hữu ích để tiếp tục thúc đẩy các giải pháp chính trị nhằm hướng tới hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực.

 

Xin chân thành cảm ơn ông!

 

Đại biểu nhân dân