Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội Khóa XIII: Bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội
Cập nhật lúc : 07:54 06/05/2015
Sáng 3.6, dưới sự điều khiển của Phó chủ tịch QH Uông Chu Lưu, QH làm việc tại Hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam; nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND và thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự thảo luật này.
Buổi chiều, QH làm việc tại Tổ, thảo luận về Dự án luật Trưng cầu ý dân và Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam.
Cụ thể hóa tiêu chuẩn, điều kiện người ứng cử
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND, Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý nêu rõ, việc bảo đảm cơ cấu, thành phần và phân bổ ĐBQH, đại biểu HĐND là yêu cầu khách quan, cần thiết, quyết định tính chất, chất lượng hoạt động của QH, HĐND sau này. Tuy nhiên, việc dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH, đại biểu HĐND phải căn cứ vào tiêu chuẩn, đồng thời cần quan tâm đến tình hình, yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn, từng địa phương, đặc biệt là phải đáp ứng được yêu cầu của công tác cán bộ. Thực tiễn cũng cho thấy, tại mỗi nhiệm kỳ QH, HĐND nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương lại có những yêu cầu, đặc điểm khác nhau, từ đó đòi hỏi cơ cấu, thành phần ĐBQH, đại biểu HĐND của mỗi khóa cũng phải có sự đổi mới để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ của QH, HĐND. Bên cạnh đó, kết quả bầu cử chủ yếu lại phụ thuộc vào lá phiếu thể hiện sự tín nhiệm của cử tri đối với từng ứng cử viên. Do vậy, Dự thảo luật chỉ quy định về việc UBTVQH dự kiến số lượng người của cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử ĐBQH để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong QH; dự kiến số lượng người dân tộc thiểu số, số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử ĐBQH nhưng phải bảo đảm để ít nhất 18% tổng số người ứng ĐBQH là người dân tộc thiểu số, ít nhất 35% tổng số người ứng cử ĐBQH là phụ nữ. Trên cơ sở đó, cử tri sẽ cân nhắc, lựa chọn những người đại diện xứng đáng cho mình.
Tán thành quan điểm của UBTVQH về dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH, đại biểu HĐND, song, ĐB Trần Văn Tấn (Tiền Giang), ĐB Nguyễn Văn Minh (TP Hồ Chí Minh) cho rằng, không nên quy định chung chung với các cụm từ đại biểu thích đáng và số lượng thích đáng như tại khoản 3, Điều 7 và khoản 1, khoản 2, Điều 9 của Dự thảo luật để bảo đảm thực hiện thống nhất khi luật có hiệu lực thi hành.
Tiêu chuẩn người ứng cử ĐBQH và ứng cử đại biểu HĐND được dẫn chiếu theo quy định tại Luật Tổ chức QH và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Tuy nhiên, ĐB Lê Thị Yến (Phú Thọ) cho rằng, nên quy định ngay trong Dự thảo Luật; đồng thời, phải cụ thể hóa các tiêu chuẩn, điều kiện này. Đại biểu cũng đề nghị, đối với người ứng cử ĐBQH cần phải có những tiêu chuẩn riêng vì QH là cơ quan lập pháp cao nhất, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đòi hỏi ĐBQH phải có đủ trình độ, năng lực, kiến thức và kỹ năng tổng hợp, phân tích, đánh giá... từ lý luận đến thực tiễn. Đối với người ứng cử đại biểu HĐND cũng cần quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện theo từng cấp tỉnh, huyện, xã. Ví dụ, tiêu chuẩn về trình độ, chuyên môn của người ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh phải khác với người ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện hoặc cấp xã.
Có nên mở rộng chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân?
Nhất trí cao với sự cần thiết ban hành Luật Trưng cầu ý dân, các ĐBQH cho rằng, đây là bước đi kịp thời nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho người dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền làm chủ của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên, nhiều ĐBQH chưa tán thành với quy định tại Điều 6 của Dự thảo Luật những vấn đề đề nghị QH quyết định trưng cầu ý dân là những vấn đề về Hiến pháp và những vấn đề quan trọng khác thuộc thẩm quyền của QH nhưng QH tôn trọng dân quyết định. Để có cơ sở cho các chủ thể đề nghị và QH quyết định trưng cầu ý dân, các đại biểu đề nghị cần bổ sung các điều kiện và tiêu chí đối với vấn đề được đề nghị trưng cầu ý dân. Theo ĐB Lâm Lệ Hà (Kiên Giang), nếu quy định chung chung như Dự thảo thì rất khó xác định được tình huống, hoàn cảnh nào phải trưng cầu ý dân, dẫn đến trách nhiệm của QH trong vấn đề này không rõ ràng. Một số đại biểu cũng đề nghị, nên quy định rõ cả những trường hợp không trưng cầu ý dân và những hoàn cảnh không tổ chức trưng cầu ý dân.
Về chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân, đa số ĐBQH đồng ý với phương án 1. Theo đó, có 3 chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân là: UBTVQH, Chủ tịch Nước, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số ĐBQH. Tuy nhiên, ĐB Trần Minh Thống (Kiên Giang) bày tỏ lo ngại về tính khả thi của quy định ít nhất 1/3 tổng số ĐBQH đề nghị trưng cầu ý dân. Bởi trong khi Chủ tịch Nước có Văn phòng Chủ tịch Nước là cơ quan giúp việc, Chính phủ có các bộ và Văn phòng Chính phủ giúp việc thì cơ chế hỗ trợ cho ĐBQH hiện nay chưa rõ ràng. Do đó, nên làm rõ cơ chế tập hợp, tổng hợp ý kiến của ĐBQH để các ĐBQH có thể thực hiện được quyền này. ĐB Bùi Văn Phương (Ninh Bình) đề nghị, không nên hạn chế số chủ thể được quyền đề nghị trưng cầu ý dân mà nên theo hướng càng mở rộng càng tốt. Điều quan trọng là chủ thể đề nghị trưng cầu ý dân đưa ra được lý lẽ phù hợp, thuyết phục được QH đồng ý tiến hành trưng cầu ý dân.
Hạn chế tầng nấc trung gian trong kinh doanh vận tải
Đối với Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hàng hải ViệtNam, các ĐBQH cơ bản tán thành với sự cần thiết sửa đổi và nhiều nội dung của Dự thảo Luật. Mục tiêu của việc sửa đổi là nhằm phát huy vai trò của giao thông hàng hải đối với phát triển KT - XH và hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn mới, khắc phục những bất cập, hạn chế về mặt thể chế của pháp luật hiện hành, nâng cao hiệu quả quản lý, bảo đảm an toàn, an ninh hàng hải.
Tại Chương V, Dự thảo Luật đã sửa đổi một số quy định về cảng biển (Điều 134), Cảng vụ hàng hải (Điều 144) của Bộ luật hiện hành; đồng thời, bổ sung hai mô hình mới là Ban Quản lý và khai thác cảng (Điều 142) và cảng cạn (Điều 147). Theo ĐB Trần Đình Long (Đắk Nông), nếu theo các quy định này thì, Ban quản lý và khai thác cảng vừa có chức năng đầu tư xây dựng cảng biển vừa tổ chức khai thác cảng, vừa thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước. Vậy thì tính chất Ban Quản lý và khai thác cảng là tổ chức kinh tế hay là cơ quan quản lý nhà nước? Ban Quản lý và khai thác cảng thuộc Bộ Giao thông - Vận tải hay thuộc UBND tỉnh? Liệu Ban Quản lý và khai thác cảng có chồng được lên các cơ quan quản lý nhà nước hiện đang tồn tại ở các cảng biển không? Đặt ra các câu hỏi này, ĐB Trần Đình Long cũng chỉ rõ: xu hướng chung của thế giới hiện nay là hạn chế các tầng nấc trung gian trong kinh doanh vận tải; việc đưa ra nhiều cơ quan quản lý như Dự thảo sẽ chỉ làm cho bộ máy trở nên cồng kềnh, gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp và làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Người đại biểu nhân dân
Bản quyền thuộc Thành ủy Huế
Vui lòng ghi rõ nguồn khi sao chép nội dung từ website http://thanhuyhue.vn/