Không quy định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán sẽ phát sinh thủ tục hành chính
Cập nhật lúc : 07:53 05/08/2015
Sáng 26.5, tiếp tục Kỳ họp thứ Chín, QH Khóa XIII, dưới sự điều khiển của Phó chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân, QH làm việc tại Hội trường, thảo luận về một số nội dung lớn còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Kiểm toán Nhà nước (sửa đổi).
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số điều của dự thảo Luật Kiểm toán Nhà nước (sửa đổi) do Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển trình bày. Theo đó, dự thảo Luật quy định Kiểm toán Nhà nước có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Các ĐBQH cơ bản tán thành với nội dung Báo cáo và đóng góp ý kiến về phạm vi điều chỉnh và mục đích hoạt động của Kiểm toán nhà nước; chuẩn mực kiểm toán; giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước, Phó tổng kiểm toán nhà nước; hệ thống tổ chức của kiểm toán nhà nước; quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán nhà nước...
Nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước nên là 5 năm hay 7 năm?
Báo cáo Kiểm toán Nhà nước có giá trị pháp lý hay không? – Tại Kỳ họp thứ Tám, khi thảo luận về vấn đề này, một số ý kiến cho rằng, Kiểm toán Nhà nước không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà là cơ quan do QH thành lập, hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, làm nhiệm vụ kiểm tra từ bên ngoài đối với tài chính, tài sản công, vì vậy, không cần thiết phải quy định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, dự thảo Luật trình QH lần này vẫn giữ quy định, báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về các sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tán thành quy định này của dự thảo Luật, ĐB Bùi Đức Thụ (Lai Châu) cho rằng, nếu không quy định giá trị pháp lý của báo cáo Kiểm toán Nhà nước sẽ phát sinh thủ tục hành chính, sau khi có báo cáo kiểm toán, phải chờ các cơ quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực xem xét, thừa nhận thì kết quả kiểm toán mới có giá trị thi hành. Điều này sẽ làm chậm việc thực thi, khắc phục những khuyết điểm, sai phạm của đơn vị được kiểm toán, không bảo đảm kỷ luật tài chính được tuân thủ nghiêm minh, kịp thời.
Một vấn đề cũng được ĐB quan tâm thảo luận là quy định thờâi gian nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước. Theo khoản 3, Điều 12 dự thảo Luật thì nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ liên tục. Qua thảo luận, nhiều ý kiến đề nghị quy định nhiệm kỳ Tổng kiểm toán Nhà nước là 5 năm phù hợp với nhiệm kỳ của QH. Song cũng có một số ý kiến đề nghị giữ nguyên nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm và không quá 2 nhiệm kỳ.
Lý lẽ của đề nghị cho giữ nguyên nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm như quy định của luật hiện hành cũng như Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý của UBTVQH là nhằm bảo đảm tính đặc thù, tính độc lập và ổn định của Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do QH lập ra, Tổng kiểm toán Nhà nước là QH bầu, nhưng Kiểm toán Nhà nước không phải là cơ quan của QH, có ngân sách và bộ máy hoạt động riêng. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan ở trung ương và khu vực (hiện có 13 khu vực), đã có gần 20 năm nay. Để bảo đảm tính ổn định của Kiểm toán Nhà nước thì các nước quy định nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước hầu hết không theo nhiệm kỳ của QH mà thường có nhiệm kỳ khá dài, có nước 9 năm, có nước 12 năm, có nước quy định từ khi được bầu đến khi không còn đủ sức khỏe hoặc vi phạm kỷ luật thì mới thôi chức vụ Tổng kiểm toán Nhà nước. Việc quy định nhiệm kỳ của Kiểm toán Nhà nước là 7 năm còn bởi lẽ, nhiệm kỳ nhà nước là 5 năm và thời hạn thông qua quyết toán ngân sách nhà nước là 18 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc. Luật Ngân sách nhà nước hiện hành và dự thảo Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) đang trình QH đều giữ quy định thời hạn 18 tháng này. Hình dung ngay trong năm ngân sách 2015, theo quy định của luật thì 18 tháng sau, đến giữa năm 2017, QH mới thông qua quyết toán ngân sách nhà nước năm 2015. Do đó, quy định về nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước phải bảo đảm tính liên tục để Tổng kiểm toán Nhà nước có thể đảm đương được nhiệm vụ. Quy định 7 năm đối với nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước được các cơ quan kiểm toán trên thế giới đánh giá rất cao và 10 năm vừa rồi vận hành không có vướng mắc gì - ý kiến của ĐB Vương Đình Huệ (Bình Định) - do vậy, đề nghị cho giữ quy định này.
Chưa yên tâm và cho rằng giải trình, tiếp thu của UBTVQH cũng như ý kiến của cơ quan soạn thảo còn thiếu tính thuyết phục, ĐB Nguyễn Anh Sơn (Nam Định) giữ quan điểm: nhiệm kỳ Tổng kiểm toán Nhà nước nên là 5 năm để bảo đảm thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Ngay cả lý lẽ nói rằng nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước phải là 7 năm để phù hợp với chu kỳ làm kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước cũng không phù hợp. Bởi với thời hạn quyết toán ngân sách nhà nước 18 tháng, nếu tính tròn là 2 năm. Vậy thì nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước phải là bội số của 18 tháng hoặc bội số của 2 năm mới phù hợp. Hoặc nếu có thì cũng chỉ phù hợp trong năm này nhưng đến năm tiếp theo chắc chắn sẽ không phù hợp nữa, lúc đó sẽ xử lý thế nào? Mặt khác, theo ĐB Nguyễn Anh Sơn, Kiểm toán Nhà nước không phải chỉ có Tổng kiểm toán Nhà nước, đây là cơ quan do QH thành lập, có các Phó tổng kiểm toán nhà nước. Nếu Tổng kiểm toán Nhà nước hết nhiệm kỳ thì còn có các Phó tổng kiểm toán tiếp tục làm việc. Và bộ máy vẫn vận hành để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật quy định. Không phải vì Tổng kiểm toán đến lúc hết nhiệm kỳ, thì bộ máy bị ngưng trệ hoặc không làm đúng được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước.
Cũng trong phiên làm việc buổi sáng, QH đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phí, lệ phí.
Nếu quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thì quy trình tố tụng sẽ như thế nào?
Buổi chiều, QH làm việc tại tổ, thảo luận về dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
Các ĐBQH tán thành với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết, mục tiêu sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật Hình sự; nhất trí với các quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Bộ luật nhằm cụ thể hóa và tạo cơ sở pháp lý bảo đảm thi hành Hiến pháp năm 2013 và tiếp tục thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về công tác tư pháp, trong đó có pháp luật hình sự, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Dự án Bộ luật được chuẩn bị theo đúng trình tự luật định, hồ sơ cơ bản đáp ứng được yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về quy định tội phạm và hình phạt trong luật chuyên ngành, các ĐB Đặng Thuần Phong (Bến Tre), Vũ Chí Thực (Quảng Ninh)... ủng hộ quan điểm của Ủy ban Tư pháp được thể hiện trong Báo cáo thẩm tra. Theo đó, việc quy định tập trung chính sách hình sự, tội phạm và hình phạt trong một bộ luật là nhằm bảo đảm sự đồng bộ, minh bạch, nhất quán trong hệ thống chính sách, pháp luật hình sự, bảo đảm tính thuận tiện trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật. Vấn đề mở rộng nguồn của luật hình sự cũng đã được đặt ra trong lần sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật năm 1999 nhưng không được QH chấp nhận và cho đến nay, đây cũng không phải là vấn đề vướng mắc trong thực tiễn thi hành luật hình sự. Hơn nữa, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung những vấn đề liên quan đến tội phạm và hình phạt phải bảo đảm tính khách quan, thống nhất và đồng bộ của cả hệ thống tội phạm và hình phạt và các chế định khác của pháp luật hình sự. Việc các đạo luật chuyên ngành đơn lẻ quy định tội phạm và hình phạt sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu này, dẫn đến sự thiếu nhất quán trong chính sách pháp luật hình sự.
Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, ĐB Bùi Mậu Quân (Hải Dương) cho rằng, truyền thống pháp luật nước ta lâu nay là cá thể hóa tội phạm hình sự. Nếu để phù hợp với thông lệ quốc tế mà cố đưa nội dung này vào là máy móc. Trong khi đó, các chế tài hình sự áp dụng đối với pháp nhân theo dự thảo Bộ luật như tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, phạt tiền... đã được áp dụng trong xử lý vi phạm hành chính. Các hình phạt như tước giấy phép hoạt động vĩnh viễn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến số lượng không nhỏ người lao động. Thậm chí, quá trình tiến hành thủ tục tố tụng phức tạp và kéo dài đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của pháp nhân, ảnh hưởng gián tiếp đến người lao động. Cùng quan điểm về vấn đề này, ĐB Trịnh Thị Thanh Bình (Bến Tre) cảnh báo, không nên vội vã đánh đồng nội dung này ở hệ thống pháp luật của các nước khác với hệ thống pháp luật của nước ta. Bởi ở nhiều nước quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, vi phạm hành chính cũng được coi là tội phạm. Từ hoạt động thực tiễn, ĐB Trịnh Thị Thanh Bình cũng nêu vấn đề: nếu quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thì quy trình tố tụng sẽ như thế nào? Ví dụ, tại các công ty cổ phần, khi tỷ lệ chiếm giữ cổ phần thay đổi thì thành phần tham gia hội đồng quản trị sẽ thay đổi. Hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân thường trong thời gian dài và có tính chất đan xen. Vậy cách thức chứng minh, hậu quả từng hành vi sẽ được xác định như thế nào? Nếu kéo dài có thể dẫn đến bế tắc trong tố tụng, ĐB Trịnh Thị Thanh Bình nhấn mạnh.
Người đại biểu nhân dân
Bản quyền thuộc Thành ủy Huế
Vui lòng ghi rõ nguồn khi sao chép nội dung từ website http://thanhuyhue.vn/