Giá trị con người là gốc của các đạo luật
Cập nhật lúc : 07:37 01/09/2016
Nhiệm kỳ QH Khóa XIII có chương trình làm việc rất nặng, bởi lẽ QH vừa lập hiến, lập pháp. Trong suốt 70 năm hình thành và phát triển QH Việt Nam, chưa có nhiệm kỳ nào có khối lượng luật được thông qua lớn như nhiệm kỳ Khóa XIII (trên 100 đạo luật). Nhiệm kỳ QH Khóa XIII là một trong những sự kiện quan trọng nhất của đời sống chính trị QH Việt Nam 70 năm qua. QH Khóa XIII đã thảo luận, xem xét, thông qua đạo luật đặc biệt quan trọng, đó là Hiến pháp 2013.
Một chế độ dân chủ và pháp quyền
Tư tưởng xuyên suốt Hiến pháp 2013 là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNamlà Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Biểu hiện tập trung nhất của tư tưởng dân chủ và pháp quyền là chủ quyền nhân dân xuyên suốt nội dung của Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Nhà nước ta về việc thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được thể hiện ở những mức độ khác nhau trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Có thể thấy rằng, Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong nhận thức, quan điểm và phương thức hiến định quyền con người đã được khẳng định trong các Công ước quốc tế về quyền con người, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa của Việt Nam.
Hiến pháp 2013 không còn đồng nhất quyền con người với quyền công dân như Điều 50 Hiến pháp 1992, mà đã đặt quyền con người trong mối quan hệ chặt chẽ với quyền công dân, khẳng định tính thống nhất và tính đặc thù của quyền con người và quyền công dân. Do vậy làm cho nội hàm của cả hai khái niệm này trở nên toàn diện hơn, rộng lớn hơn, bao quát được đầy đủ các chủ thể của quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp 2013 đã xác định một nguyên tắc rất cơ bản liên quan đến quyền và giới hạn quyền con người: “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14). Như vậy, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế bằng luật và chỉ giới hạn trong 5 trường hợp. Nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trong nhận thức lý luận mà còn trong thực tiễn lập pháp và thực thi luật pháp. Nó đòi hỏi phải đổi mới căn bản tư duy lập pháp, để từ đó rà soát, loại bỏ những quy định dưới luật đang hạn chế quyền con người, quyền công dân trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành.
Hiến pháp 2013 vừa tiếp tục ghi nhận các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời bổ sung nhiều quyền mới như quyền sống (Điều 19), quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17), quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền tự do kinh doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm (Điều 33), quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34), các quyền văn hóa (Điều 41), quyền xác định dân tộc, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42), quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43)… Các quyền con người, quyền công dân quy định trong Hiến pháp 2013 không chỉ tăng lên về số lượng quyền mà nội dung các quyền cũng đã được xác định rõ ràng, minh bạch hơn và gắn liền với việc quy định các điều kiện bảo đảm thực hiện, làm cho các quyền này có tính khả thi trong thực tiễn.
Định danh rõ vị trí từng thiết chế nhà nước
Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định mô hình tổng thể bộ máy nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp 1992, đồng thời bổ sung hai thiết chế quan trọng là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Giá trị nổi bật trong các quy định của Hiến pháp 2013 về tổ chức bộ máy nhà nước là đã hiến định một cách đầy đủ, toàn diện nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp” (Điều 2). Như vậy, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một nội dung quan trọng đó là: kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Sự bổ sung này làm cho nguyên tắc tổ chức quyền lực trở nên hoàn thiện với 4 nội dung quan trọng: thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực, kiểm soát quyền lực. Với sự hoàn thiện này, Hiến pháp đã định danh rõ vị trí, vai trò của từng thiết chế nhà nước trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
Sự hoàn thiện nguyên tắc tổ chức quyền lực từ phương diện Hiến pháp đòi hỏi phải được thể hiện trong các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đến Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và chính quyền địa phương. Theo đó các nội dung phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cần được thể hiện nhất quán trong các quy định pháp luật về vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm cũng như mối quan hệ trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước được Hiến pháp quy định cho các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu để cơ cấu lại tổ chức, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi một thiết chế trong bộ máy nhà nước nhằm xác định nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền và các mối quan hệ giữa các cơ quan này phù hợp với vị trí, tính chất của từng cơ quan bảo đảm sự phân công, phối hợp, đặc biệt là sự kiểm soát lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền.
Gắn kết hữu cơ giữa kinh tế và xã hội
Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Hiến pháp 2013 đã hiến định những nội dung cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam và các chính sách, quan điểm lớn về văn hóa, xã hội trong mối liên hệ chặt chẽ với quá trình xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Hiến pháp đã xác định rõ mục tiêu, tính chất của chế độ kinh tế - văn hóa xã hội của Việt Nam là “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50). Để đạt được mục tiêu của chế độ kinh tế - xã hội này, Hiến pháp 2013 tiếp tục làm rõ thêm hai đặc điểm cơ bản của nền kinh tế nước ta là: kinh tế thị trường và định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường.
Cùng với việc xác định rõ hơn tính chất thị trường của nền kinh tế ViệtNam, Hiến pháp 2013 tiếp tục góp phần làm rõ thêm tính định hướng XHCN của nền kinh tế. Theo đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; khẳng định chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý.
Đối với các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, Hiến pháp 2013 đã có cách thể hiện mới, khắc phục được sự dàn trải, ít tính thực tiễn, tập trung vào các nội dung cơ bản có tính tổng quát, tính thực tiễn cao, tạo khuôn khổ hiến định rộng mở cho sự phát triển của các lĩnh vực văn hóa - xã hội trong sự gắn kết mật thiết với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Các quy định mới của Hiến pháp về văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường mở ra nhiều khả năng phát triển linh hoạt của các lĩnh vực này, huy động được các tiềm lực xã hội, thúc đẩy các chính sách và chủ trương xã hội hóa, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.
Dĩ nhiên, để các giá trị mới này tạo được động lực mới cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2014 - 2020 và tầm nhìn tiếp theo, các quy định pháp luật trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường phải được đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ với đổi mới pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, tạo dựng một môi trường pháp lý minh bạch, công bằng, dân chủ và sáng tạo cho mọi quá trình xã hội.
Có thể thấy rằng, các quy định của Hiến pháp 2013 về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ khẳng định tính thị trường và tính định hướng XHCN của mô hình kinh tế Việt Nam mà còn thể hiện sự trung thành và nhất quán của Nhà nước về thừa nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Các quy định mới của Hiến pháp về đất đai, quyền sử dụng đất, các trường hợp thu hồi đất và chế độ bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi, trưng mua, trưng dụng đất; nền tài chính quốc gia đều nhằm mục tiêu phát triển các quan hệ kinh tế thị trường, tôn trọng các quy luật thị trường, bảo đảm định hướng XHCN của toàn bộ nền kinh tế.
Đại biểu nhân dân
Bản quyền thuộc Thành ủy Huế
Vui lòng ghi rõ nguồn khi sao chép nội dung từ website http://thanhuyhue.vn/