Định hình cơ chế mới về quản trị nước, quan điểm hành động của Quốc hội Việt Nam
Cập nhật lúc : 07:25 06/02/2015
Với tinh thần dân chủ và trách nhiệm cao của Nghị viện các nước, IPU - 132 đã thông qua 5 văn kiện quan trọng. Trong đó có Nghị quyết “Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước”. Nghị quyết này được thông qua với tỷ lệ tuyệt đối phiếu ủng hộ (27/27 phiếu thuận) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc thúc đẩy các quốc gia trong việc nghiên cứu, định hình cơ chế mới về quản trị nước, thúc đẩy Nghị viện các nước đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản trị nước, tăng cường cơ chế hợp tác trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 (IPU - 132) mà Việt Nam là quốc gia đăng cai tổ chức tại Thủ đô Hà Nội đã diễn ra thành công tốt đẹp và được đánh giá là một trong những kỳ Đại hội được tổ chức tốt nhất trong hơn 30 năm qua(1). Sau 5 ngày làm việc tích cực với tinh thần dân chủ và trách nhiệm cao của Nghị viện các nước, IPU - 132 đã thông qua 5 văn kiện quan trọng(2). Trong đó có Nghị quyết “Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước”. Nghị quyết này được thông qua với tỷ lệ tuyệt đối phiếu ủng hộ (27/27 phiếu thuận) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc thúc đẩy các quốc gia trong việc nghiên cứu, định hình cơ chế mới về quản trị nước, thúc đẩy Nghị viện các nước đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản trị nước, tăng cường cơ chế hợp tác trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
Với tư cách là nước chủ nhà đăng cai tổ chức IPU - 132 và là quốc gia có sáng kiến đề xuất việc đưa vấn đề quản trị nước vào nội dung nghị sự của IPU - 132, Việt Nam đã tích cực chuẩn bị các nội dung phục vụ cho việc thảo luận và thông qua Nghị quyết.
1. Nhận định về nguy cơ mất an ninh nước toàn cầu
QH Việt Nam thống nhất nhận định: sự khan hiếm nước và thiếu cơ hội tiếp cận với nước sạch đã và đang trở thành mối đe dọa với sự phát triển và an ninh toàn cầu. Hiện nay, trung bình mỗi ngày có khoảng 2 triệu tấn chất thải sinh hoạt đổ ra sông, hồ, biển, 70% chất thải công nghiệp chưa qua xử lý đổ vào nguồn nước. Thống kê của tổ chức UNICEF cho biết thiếu nước sạch là nguyên nhân gây tử vong của 1,6 triệu trẻ em/năm và cứ 3 người thì có một người phải sống trong tình trạng thiếu nước. Một trong những nguyên nhân hàng đầu theo nhận định của Hội đồng Nước thế giới đưa ra năm 2000 là: “Thế giới đang khủng hoảng nước, không phải do có quá ít nước không bảo đảm được nhu cầu của chúng ta, mà là cuộc khủng hoảng về quản trị ngành nước quá kém, đến mức con người và môi trường bị ảnh hưởng trầm trọng”. Quản trị nước, đặc biệt với các nguồn nước xuyên quốc gia trở thành vấn đề tối quan trọng đối với mỗi quốc gia và là vấn đề cấp thiết cần sự chung tay giải quyết của nhiều quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới.
Việt Nam, mặc dù là một quốc gia có trữ lượng nước được đánh giá là dồi dào, tiềm năng lớn với 108 lưu vực sông (khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn); trữ lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830 - 840 tỷ m3;nước dưới đất có trữ lượng tiềm năng khoảng 63 tỷ m3; có 2.900 hồ chứa thủy điện, thủy lợi với tổng dung tích trên 65 tỷ m3, tuy nhiên tài nguyên nước Việt Nam đang đứng trước rất nhiều sức ép, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Lượng nước của Việt Nam có 2/3 phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nước từ bên ngoài; nguồn nước phân bổ không cân đối giữa các vùng, các lưu vực sông và không đều theo thời gian trong năm, giữa các năm. Nhu cầu nước ngày một gia tăng trong khi nguồn nước tiếp tục bị suy giảm, đặc biệt trong mùa khô. Ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do nguồn nước bị ô nhiễm. Một số khu vực xảy ra tình trạng khai thác quá mức nước ngầm. Rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém làm giảm nguồn sinh thủy. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xâm nhập mặn cũng tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới tài nguyên nước. Cạnh tranh khai thác sử dụng nước giữa các ngành, các đối tượng khai thác nguồn nước, giữa thượng lưu và hạ lưu ngày càng tăng... Trong khi đó, ý thức, trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ người dân, tổ chức và doanh nghiệp trong việc bảo vệ nguồn nước, sử dụng tiết kiệm nước, vệ sinh nguồn nước còn kém. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, nhận thức, thói quen sản xuất, sinh hoạt của nhiều người dân trong việc sử dụng các nguồn nước, vệ sinh môi trường còn nhiều hạn chế, càng làm gia tăng ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước và cũng là một trong những tác nhân làm gia tăng các bệnh, dịch thời gian qua.
2. Công tác quản trị nước ở Việt Nam còn chưa hiệu quả
Là quốc gia chủ nhà của IPU - 132, đồng thời là quốc gia đề xuất chủ đề về khuôn khổ thể chế quản trị nước, để chuẩn bị cho việc thảo luận, thông qua Nghị quyết “Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước” tại IPU - 132, tháng 12.2014, lãnh đạo QH Việt Nam đã chỉ đạo Viện Nghiên cứu lập pháp tổ chức Hội thảo quốc tế QH với việc định hình cơ chế mới về quản trị nước dưới sự chủ trì của lãnh đạo QH. Tại diễn đàn này, các ĐBQH, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã phân tích và chỉ rõ những hạn chế, yếu kém trong công tác quản trị nước tại Việt Nam.
Ngành nước ở Việt Nam đã trải qua một chặng đường suốt nửa thế kỷ tiến hành cải cách thể chế. Kể từ năm 2002, chức năng quản lý nhà nước tài nguyên nước được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường và tiếp tục có những cải cách về thể chế quản lý tài nguyên nước. Tuy nhiên, quá trình cải cách thể chế về quản lý tài nguyên nước trong thời gian qua đã thể hiện sự thiếu bài bản. Cụ thể như: việc chuyển giao chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sang Bộ Tài nguyên - Môi trường năm 2002 tuy có sự chuyển giao về chức năng song lại không chuyển giao bộ máy và lực lượng chuyên môn tương ứng, vì thế tình trạng phân tán kéo dài, không phát huy tối đa được nguồn nhân lực sẵn có, chỗ thừa, chỗ thiếu. Thực tế này làm cho việc đổi mới thế chế và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước dựa trên phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền phải tốn nhiều thời gian và có sự chậm trễ so với các mục tiêu phát triển bền vững về lĩnh vực nước. Thậm chí cho đến nay, mặc dù đã có sự thống nhất nhận thức chung về nguyên lý quản trị nước và việc phân vai của mỗi ngành, mỗi cấp nhưng trong điều hành các hoạt động quản lý thực tiễn vẫn ít nhiều có sự lúng túng, chưa bảo đảm sự lồng ghép, phối hợp chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, còn có tình trạng chồng chéo trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ; giữa các bộ, ngành liên quan chưa có sự thống nhất trong công tác quy hoạch liên quan đến nước, gây nên sự chồng lấn, thậm chí mâu thuẫn nhau.
Công tác quản trị nước ở nước ta hiện nay được điều chỉnh bởi Luật Tài nguyên nước năm 1998 và sửa đổi năm 2012. Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng các văn bản pháp luật liên quan khác không ngừng được hoàn thiện và đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản về quản lý, điều hành, lưu trữ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước trên toàn quốc. Tuy nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên nước của nước ta vẫn còn những bất cập, hạn chế như: luật vẫn mang tính luật khung, muốn thi hành được thì phải có các văn bản hướng dẫn thi hành; các chế tài xử phạt vi phạm còn chưa hợp lý hoặc còn quá nhẹ chưa đủ tính răn đe; một số quy định chưa phù hợp với các Điều ước quốc tế; việc giám sát thực thi Luật vẫn chưa đạt được hiệu quả, yêu cầu đặt ra...
Trên thực tế, công tác quản lý nước và bảo vệ nguồn nước ở Việt Nam còn nhiều bất cập như: quản lý tài nguyên nước còn cục bộ theo từng ngành sử dụng, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các tỉnh; tiếp cận vấn đề về nước chủ yếu từ trên xuống, trong khi đó vấn đề sử dụng nước là của địa bàn gắn với cuộc sống con người; nhiều địa phương cũng chưa có sự quan tâm đúng mức hoặc thiếu năng lực quản lý tài nguyên nước; chưa có tầm nhìn tổng thể, dài hạn đối với quản lý và bảo vệ tài nguyên nước; cơ chế quản lý nước theo vùng địa lý lưu vực chưa hoàn chỉnh nên việc thực hiện quản lý các nguồn nước liên tỉnh còn nhiều khó khăn; đầu tư cho ngành nước còn thấp, trong đó mới đầu tư cho khai thác sử dụng, chưa đầu tư tương xứng cho quản lý và bảo vệ tài nguyên và môi trường; thiếu dữ liệu và thông tin kịp thời phục vụ quản lý tài nguyên nước, thiếu tiêu chí kinh tế xã hội môi trường để phục vụ xét duyệt chính sách, quy hoạch và dự án tài nguyên nước; cơ cấu định giá nước không đủ trang trải chi phí vận hành bảo dưỡng, phân phối nước không hợp lý, tỷ lệ thất thoát nước cao; vẫn còn tồn tại cơ chế xin - cho trong quản lý nước; hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở các vùng nông thôn chưa được quan tâm thỏa đáng...
3. Vai trò của QH trong việc định hình cơ chế mới về quản trị nước và quan điểm hành động của QH Việt Nam
Nghị viện các nước, trong đó có QH Việt Nam là cơ quan có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản trị nước. Ở Việt Nam, QH sẽ tiếp tục đề cao vai trò trong việc xây dựng mới, sửa đổi và tiến tới hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản trị nước, hình thành một cơ chế mới bảo đảm đồng bộ về công tác quản trị nước,tiếp tục đẩy mạnh công tác giám sát việc thực thi các văn bản pháp luật về lĩnh vực này.
Nghị quyết “Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước” được thông qua tại IPU - 132 vừa qua nhấn mạnh: việc quản lý hiệu quả và quản trị đa cấp độ tốt tài nguyên nước là điều kiện tiên quyết không thể thiếu để bảo đảm quyền con người được tiếp cận với nước và vệ sinh; Nghị quyết kêu gọi: “Nghị viện các nước ban hành luật để triển khai cho phù hợp các hiệp ước quốc tế, luật tập quán và các nghị quyết liên quan quản trị nguồn nước và quyền con người được tiếp cận với nước và vệ sinh, nhằm thực hiện cho phù hợp việc đào tạo nguồn nhân lực và tuyên truyền nhiều hơn để tăng cường sự hiểu biết về những công cụ này, và để khuyến khích các chiến dịch nâng cao ý thức của người dân với mục đích tăng cường sử dụng nước có trách nhiệm”; “Nghị viện các nước đẩy mạnh an ninh nguồn nước thông qua việc xây dựng và triển khai, trong phạm vi quyền hạn của mình, các kế hoạch quản lý tài nguyên nước đầy đủ có sự hợp tác liên ngành và các bên tham gia, nhằm cân bằng nhu cầu cao của con người đồng thời dành ưu tiên nguồn nước sinh hoạt cho tất cả mọi người, không phân biệt đối xử và có quan tâm đặc biệt đến bình đẳng giới và những đối tượng dễ tổn thương nhất của xã hội”; Nghị quyết cũng khuyến khích: “nghị viện các nước hối thúc chính phủ của mình tôn trọng các cam kết mà nước mình đã tuyên bố về bảo vệ và bảo tồn nguồn nước sạch”...
Trên cơ sở nội dung Nghị quyết “Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước”, QH Việt Nam thống nhất quan điểm hành động trong thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, tập trung chỉ đạo nghiên cứu để hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về tài nguyên nước, thúc đẩy tập trung xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tài nguyên nước năm 2012 để triển khai đồng bộ, có hiệu quả các cơ chế, chính sách đã được thể chế hóa trong Luật. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về tài nguyên nước để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, tăng cường vai trò của QH trong việc xây dựng các chính sách định vị tầm quan trọng của tài nguyên nước. QH sẽ nghiên cứu và đưa ra các chính sách khuyến khích quản lý và sử dụng nguồn nước theo hướng bền vững, trong đó chú ý đến khả năng tiếp cận nguồn nước sạch của người dân; hiệu quả sử dụng nước trong nông nghiệp; vai trò của nước trong an ninh lương thực, năng lượng và hỗ trợ các dịch vụ sinh thái hướng tới phát triển những nền kinh tế xanh; xây dựng chương trình hành động, phát triển nguồn nhân lực cho công tác quản trị nguồn nước và nâng cao nhận thức cộng đồng về quản trị nguồn nước. QH sẽ thể hiện vai trò chủ thể quyết định phê duyệt Chiến lược tài nguyên nước và quy hoạch tài nguyên nước.
Thứ ba, tăng cường vai trò của QH trong việc giám sát thực thi chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên nước. Để đạt được hiệu quả giám sát trong lĩnh vực quản trị tài nguyên nước, QH sẽ có những đổi mới công tác giám sát và nâng cao hơn nữa năng lực giám sát. Trong đó, đổi mới công tác giám sát cần chú trọng việc xây dựng chương trình giám sát, lựa chọn nội dung giám sát, đổi mới cách thức triển khai và đề cao trách nhiệm, chế tài trong công tác giám sát.
Thứ tư, QH chỉ đạo nghiên cứu và định hướng xây dựng mô hình quản trị nguồn nước phù hợp theo hướng quản trị tổng hợp tài nguyên nước, chú trọng mô hình quản trị nước theo lưu vực sông (quản lý lưu vực sông được đánh giá là vấn đề then chốt trong quản lý tài nguyên nước). Đây là khâu quan trọng trong thể chế quản trị ngành nước và việc chuyển trọng tâm quản lý từ trung ương xuống lưu vực sông phải được coi là yêu cầu mang tính chiến lược của ngành nước.
Thứ năm, QH tăng cường chỉ đạo công tác quản trị nước theo hướng: tăng cường phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong công tác quản trị nước; khắc phục tình trạng xin - cho; đổi mới cơ chế, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và các cơ quan quản lý chuyên ngành về tài nguyên nước các cấp; nghiên cứu quy hoạch tổng hợp các lưu vực sông; xây dựng cơ chế giám sát thường xuyên, liên tục các hoạt động khai thác, sử dựng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thông qua việc áp dụng công nghệ tự động, trực tuyến, cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục; xây dựng, hoàn thiện và từng bước tối ưu hóa cơ chế phối hợp vận hành điều tiết nước trong cả mùa cạn, mùa lũ; xúc tiến ngay việc quy hoạch và quản lý nước ngầm, giải quyết triệt để tình trạng khai thác cát trái phép; đối với một số vấn đề quan trọng, liên quan đến quyền lợi thiết thân của người dân cần lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân; đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông...
Thứ sáu, QH tăng cường công tác ngoại giao nghị viện, xây dựng cơ chế hợp tác, đối thoại, chia sẻ thông tin về quản trị nước với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có chung nguồn nước. Đối thoại và chia sẻ thông tin là cách thức hiệu quả để giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia có chung nguồn nước, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các quốc gia. QH, các cơ quan của QH cần tích cực hơn nữa trong việc tham gia xây dựng các công ước, điều ước quốc tế liên quan đến khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước, nhằm thúc đẩy quá trình hình thành khuôn khổ pháp lý điều chỉnh việc sử dụng nguồn nước trên thế giới, bảo đảm an ninh nguồn nước và phát triển bền vững các lưu vực sông. Kêu gọi đàm phán, ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương giữa các quốc gia có chung nguồn nước để hợp tác, giải quyết tranh chấp, bất đồng và xử lý các vấn đề liên quan đến nguồn nước liên quốc gia. Tăng cường ngoại giao về vấn đề nước trong hoạt động đối ngoại của QH, thông qua thiết lập cơ chế đối thoại cấp nghị viện và chia sẻ thông tin về các vấn đề liên quan quản trị nguồn nước đối với các nguồn nước xuyên quốc gia và trao đổi kinh nghiệm xây dựng pháp luật và cơ cấu bộ máy thực thi quản trị nguồn nước. Ngoài ra, cần tranh thủ sự giúp đỡ của Liên minh Nghị viện Thế giới và sự giúp đỡ của QH các nước về kinh nghiệm trong công tác quản lý tài nguyên nước.
_______________
1. Nhận xét của Ngài Saber Chowdhury, Chủ tịch IPU và Ngài Martin Chungong Tổng thư ký IPU;
2. Tuyên bố Hà Nội với chủ đề “Các mục tiêu phát triển bền vững: Biến lời nói thành hành động”; các Nghị quyết:(1) Chiến tranh mạng - mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh toàn cầu; (2) Định hình cơ chế mới về quản trị nước: Thúc đẩy hành động của Nghị viện về vấn đề nước; (3) Nghị quyết về Luật pháp quốc tế trong vấn đề chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và quyền con người; (4) Hợp tác nghị viện chống lại Nhà nước Hồi giáo IS và nhóm khủng bố Boko Haram chống lại dân thường, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Ts. Uông Chu Lưu
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch QH
Người đại biểu nhân dân
Bản quyền thuộc Thành ủy Huế
Vui lòng ghi rõ nguồn khi sao chép nội dung từ website http://thanhuyhue.vn/